Tìm hải sử Việt Nam ở đâu? - Inrasara
Xưa, người Việt mở cõi xuống đất liền ở phương Nam, và chỉ biết có đất liền; còn đóng tàu viễn dương, thì hầu như chưa. Suốt dòng lịch sử dựng nước và giữ nước, người Việt chỉ biết ra khơi về lộng, chứ chưa hề đi xa hơn. Mà “lộng”, theo Từ Chi, chỉ đâu khoảng ba cây số cách bờ, còn “khơi” xa lắm cũng đến bảy cây số là cùng. Nền hải sử Việt Nam hoàn toàn thiếu vắng. Bởi không hướng biển, cho nên việc nhận biết thế giới của người Việt xưa cũng rất hạn chế. Vĩnh Sính đã “Thử tìm hiểu thêm về chuyến đi công vụ ở Hạ Châu của Cao Bá Quát”, và thấy:
“Vào nửa đầu thế kỷ XIX, kiến thức địa lý thế giới ở Trung Quốc và Việt Nam hãy còn hết sức hạn chế và tạp nhạp, ngay tờ quan báo do tỉnh Quảng Đông phát hành từ năm 1819 đến năm 1822 còn giải thích Bồ Đào Nha ở cạnh Malacca, mà Pháp và Bồ Đào Nha chỉ là một, hay nói một cách khác Pháp nằm kế cận eo biển Malacca!” (ERCT.com, 2003).
Trung Quốc đã thế, người Việt trước đó cứ nghĩ chỉ cần bước qua nước láng giềng học là đủ, chứ chưa chịu nhìn xa hơn, đi xa hơn, để học các nền văn minh khác. Mãi đến thế kỉ XIX, ta mới bắt đầu rục rịch “sang Tây dương”. Mà Tây dương ấy, như đã thượng dẫn, cũng chỉ đâu quanh khu vực Malacca hôm nay! Rồi “sang Tây dương”, ta mới vỡ lẽ:
Tân Gia từ vượt con tàu
Mới hay vũ trụ một bầu bao la...
Cao Bá Quát tiếng cao ngạo, mới đi đến Malacca mà đã phải kêu lên như thế, cũng đủ biết. Không đi biển, không có truyền thống “viễn dương” thì không có nền hải sử, là chuyện không lạ. Champa ngược lại, người Chăm viễn dương từ rất sớm. Sớm và xa. Viễn dương đầy chủ động. Do đó – khi Champa đã làm một với Tổ quốc Việt Nam thống nhất, thì việc nhận diện văn hóa biển của vương quốc Champa cổ sẽ bổ khuyết cho sự nhìn nhận thực thể Việt Nam.
Ngay ở thế kỉ thứ IV, sử sách ghi nhận, vua Champa là Gangaraja sau vài năm trị vì, đã nhường ngôi lại cho cháu, để sang Ấn Độ. Đây là vị vua duy nhất của Đông Nam Á thuộc Ấn Độ giáo đã vượt đại dương sang bờ sông Hằng. Suốt 17 thế kỉ tồn tại, người Chăm đã làm chủ biển Đông, vùng biển mà người Bồ Đào Nha ở thế kỉ XVI gọi là biển Champa Sea of Champa, sau đó người Trung Quốc mới gọi là biển Nam Hải, còn ta thì kêu biển Đông.
Thế kỉ thứ X, bộ phận lớn người Chăm thiên di qua Đảo Hải Nam – Trung Quốc sinh sống, hiện họ vẫn còn nhớ mình từ đâu tới. Trước đó nữa, thời vương quốc còn mang tên Lâm Ấp, nghĩa là trước năm 749 khi Lâm Ấp đổi thành Hoàn Vương, người Chăm đã có những giao lưu quan trọng với Nhật Bản. Vũ Ngọc Liễn khám phá thấy vở kịch:
“Long vương” của Champa lúc ấy có tên Lâm Ấp lưu lạc đến Nhật Bản, được người Nhật trích dịch chọn một phần dựng thành điệu múa “Long vương vũ”. Các học giả Nhật Bản thẩm định rằng: Điệu La Lăng vương không phải từ Trung Hoa truyền đến mà là nhạc của nước Lâm Ấp” (2009, Tagalau 9, “Điệu múa Chăm lưu lạc trên đất Nhật”, tr. 116-118).
Riêng kiến trúc và điêu khắc, sau những chuyến lang bạt kì hồ, người Chăm đã biết thâu thái từ nền kiến trúc của các nước láng giềng: Thái Lan, Khmer, Java… để sáng tạo nên nền kiến trúc kì vĩ của mình với rất nhiều phong cách khác nhau. Không có những cuộc đi cùng những chuyến viễn dương, thì sẽ không thể làm được bao công trình bất hủ kia.
Thế nên, việc người Chăm [của Việt Nam] đã làm chủ Hoàng Sa - Trường Sa là chuyện nhỏ.
Câu chuyện vua Chế Mân lấy công chúa Malaysia là Tapasi cuối thế kỉ XIII, hay chuyện Po Rome (1627-1651) qua Kelantan để lại mấy thế hệ hậu duệ bên ấy, hoặc trường ca cổ Chăm kể về Po Tang Akauk sinh ra, sống và chết đi với biển, là một mảnh huyền sử về văn hóa biển đáng giá.
Urang hu sang si đih
Ppo ngap anih dalam tathik
Urang hu sang si dauk
Ppo ngap danauk dalam tathik
Người có nhà để ngủ
Người cất chỗ trú giữa đại dương
Người có nhà để ở
Người lập nơi ngụ giữa đại dương.
(Inrasara, 1996, Văn học Chăm II – Trường ca, NXB Văn hóa Dân tộc)
Đặc biệt trong lịch sử Champa, thương cảng Cù Lao Chàm có vai trò cực kì quan trọng trong việc giao thương đường biển của cả Đông Nam Á. Đó là một cảng lớn tầm khu vực được người Chăm sử dụng làm trạm trung chuyển hàng hóa từ Ả Rập, Ấn Độ sang Trung Quốc.
“Cù Lao Chàm với vị thế thuận lợi của mình đã vươn lên thành thương cảng số một của vương quốc Champa… Trên quãng đường dài từ Kra Isthmus (nam Thái Lan, bắc Mã Lai ngày nay) đến Canton (Quảng Châu - Trung Quốc) chỉ có một trạm dừng chân duy nhất là Chiêm cảng - Cù lao Chàm, nơi có thể nghỉ ngơi, tích trữ lương thảo, nước ngọt và buôn bán, trao đổi hàng hoá... trước khi dong buồm thẳng sang Trung Quốc mà không cần phải ghé vào một số cảng ở miền Bắc Việt Nam. Thư tịch cổ của người Ả Rập thế kỷ IX (851-852) cho biết những thuyền buôn từ Tây Á sang Trung Quốc và ngược lại, thường ghé qua Cù Lao Chàm của Champa để lấy nước ngọt và trầm hương” (Lâm Thị Mỹ Dung, 2012, “Cù Lao Chàm, chiều dày lịch sử và văn hóa”, vntimes.com.vn).
Bao nhiêu chứng cứ về hải sử Việt Nam ở quanh đó. Vậy mà, mấy năm qua nhiều dấu vết lịch sử nơi hòn đảo này đang bị bôi xóa. Nhiều giếng vuông Chăm biến thành giếng tròn, dân chúng ở đảo này kể, - gạch Chăm xưa mênh mông nay cũng không tìm đâu ra nữa. Như thể một “phi tang lịch sử”. Đó là thái độ vô cùng nguy hiểm và tai hại. Tại sao? Bởi khi văn hóa biển của Cù Lao Chàm bị xóa sổ, chúng ta mất đi một phần cứ liệu lịch sử giá trị để chứng thực cho chủ quyền biển đảo của đất nước Việt Nam hiện đại.
Người ta hành động, mà như không biết hay quên đi khẳng định đinh đóng cột của nhà văn hóa Phạm Huy Thông:
“Văn hóa Champa, dù tiếp nối hay vượt lên văn hóa Sa Huỳnh nảy nở ở đây trước đó, là một cống hiến xuất sắc vào kho tàng văn hóa Việt Nam xưa và nay (…) và người Chăm là một gạch nối nối liền nước ta với Đông Nam Á Hải đảo, mà quan hệ nhiều mặt giữa đôi bên ngày càng trở nên mật thiết” (1988, “Lời giới thiệu”, Điêu khắc Chăm, NXB Khoa học Xã hội).
Thuở nhỏ, tôi rất đỗi ngạc nhiên về lối kêu than giữa mẹ tôi với Bà Hai Mót, một bà người Kinh quê Hải Chữ qua Caklaing bán quán. Bên kia hàng rào bà kêu: “trời đất ơi”, còn bên này mẹ than: “trời biển ơi” lingik tathik lơy! Lớn lên tôi mới vỡ ra về sự khác nhau giữa hai dân tộc Việt - Chăm. Khác nhau từ môi trường sống dẫn đến khác nhau về lối nghĩ thể hiện qua ngôn từ – thứ ngôn từ bình dân nhất mới là điều đáng tin nhất. Người Chăm nhìn lên thấy trời, cúi xuống thấy biển, chứ không phải đất. Nghĩa là đời sống Chăm đa phần gắn chặt với biển.
“Cư dân Chăm cổ thường xuyên có mặt ngoài khơi, ngoài đảo xa. Vì thế họ đã có sự giao lưu kinh tế văn hoá với thế giới hải đảo Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương” (Nguyễn Đức Hiệp, 2006, “Lâm Ấp, Champa và di sản”, Vanchuongviet.org).
Trả lời báo Thể thao & Văn hóa cuối tuần, ngày 23-5-2014 do Văn Bảy thực hiện với tiêu đề “Lỗ hổng” văn hóa biển Việt Nam“, tôi cho rằng "người Việt không có truyền thống về biển, nếu không muốn nói là “phân biệt đối xử” với những gì liên quan đến biển, phân biệt xa đến tận… huyền sử Việt. Không có văn hóa biển, nên Việt Nam chưa có được nền hải sử, nói chi một nền hải sử sâu rễ bền gốc".
Có bạn nghiên cứu trẻ từ Hà Nội viết cho tôi điện thư, đồng ý với luận điểm và mọi chi tiết tôi nêu lên trong bài trả lời, riêng về khẳng định trên, anh cho là “cei Sara chưa công bằng cho lắm”. Anh có vẻ lấn cấn như thế thì không gì sai, bởi khi nói “tận huyền sử”, tôi liên tưởng đến câu chuyện Lạc Long Quân, Chử Đồng Tử, và phần nào đó – Mai An Tiêm.
Văn Bảy hỏi: Xin anh thử cắt nghĩa vì sao người Việt lại có tâm lý sợ, hay lơ là biển đến như vậy? Tôi nói: Lơ là thì không khó nhận ra. Chúng ta quen nhìn bề mặt và không hướng bề sâu, bề sau. Bề mặt núi ta thấy núi có củi, có gỗ, có trái cây, có muông thú, vân vân; còn bề mặt biển thì chỉ có mênh mông… sóng. Bề sâu núi, ở tầng cạn hay thậm chí lộ thiên, trước mắt ta bao nhiêu là mỏ, cứ cúi xuống nhặt hay cần vài nhát cuốc đào là dùng ngay được; ngược lại dưới đáy biển thì mù mịt!
Còn sợ, có mấy yếu tố khiến người Việt sợ biển. Văn minh lúa nước gia cố tâm thế làng xã, quanh đi quẩn lại bà con láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau; cho nên tinh thần phiêu lưu ở người Việt rất yếu. Cùng lắm, có “đi khơi về lộng” ta vẫn mang tâm lí hợp quần. Còn tinh thần phiêu lưu cần đến cá nhân có cá tính mạnh, ham làm giàu hay thậm chí chỉ cần đi để thỏa mãn sự hiểu biết. Nghĩa là ở đó, cá nhân thường trực đối mặt với cô đơn và cái chết.
Cạnh đó, viễn dương thì không thể không tính đến yếu tố khoa học kĩ thuật, như kĩ thuật đóng tàu lớn có sức chịu đựng đường dài và dài hạn. Rồi trong các hành trình xuyên đại dương kia, hàng loạt vấn đề cấp thiết đặt ra cần giải quyết, đó là: thiên văn học, y học, ngôn ngữ… Theo tôi, trong quá khứ, cụ thể hơn – đầu thế kỉ XIX trở về trước, người Việt không tỏ ra có ưu thế về khoa học kĩ thuật; còn học hỏi, cha ông ta chỉ biết đi bộ qua Trung Quốc tiếp nhận văn hóa họ, nên chỉ giỏi có mỗi… chữ Hán!
Năm 1834, khi dẹp xong cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi, vua “Minh Mạng xuống lệnh cấm người Chăm làm nghề biển và phải sống bằng nghề nông thuần túy… người Chăm bị đánh mất truyền thống oai hùng của nghề đi biển” (Nguyễn Tiến Văn, báo Thế thao & Văn hóa cuối tuần, sđd). Người Chăm đánh mất nhưng không quên đi truyền thống biển. Bởi biển ở trong máu họ, tồn tại trong ngôn ngữ và tâm thức họ. Một dân tộc “ý thức về đại dương/ biển lớn” sớm và mạnh, đã để lại dấu ấn đậm nét trên một vùng biển Đông Nam Á rộng lớn (Tạ Chí Đại Trường, 2009, Bài sử khác cho Việt Nam, NXB Văn Mới, Hoa Kì, tr. 23), thì không dễ dàng để mất truyền thống sâu rễ bền gốc ấy. Nó làm thành văn hóa biển của Champa, làm đầy tính toàn vẹn của lịch sử Việt Nam.
I.R.S.R