Hẹn gặp lại - Lê Thế Thành
Tôi quản lý một khách sạn, thường xuyên được đón khách du lịch người nước ngoài. Vừa qua cũng có một đoàn khách ngoại quốc. Sau một “tua” du lịch 05 ngày, đoàn khách về nước. Tôi kiểm tra lại phòng thì phát hiện có một du khách bỏ quên cuốn nhật ký trong ngăn tủ. Tôi không biết chữ của nước họ nhưng nhìn ngày, tháng thì biết họ mới chỉ ghi những ngày ở khách sạn do tôi quản lý.
Tò mò muốn biết họ viết gì, tôi nhờ một người bạn dịch ra tiếng Việt.
Dưới đây là nội dung những dòng nhật ký ấy.
Ngày N…. năm 2011
Thế là đã đến Việt Nam. Tôi đã từng xem trên truyền hình, xem ảnh và báo chí nhưng mọi tưởng tượng của tôi đều khác xa với cảnh thực của đất nước này. Ngoài phố xá và đường giao thông ra, đất nước của họ dường như chỉ toàn màu xanh. Hình như mùa này lúa của họ cũng đang thì con gái bởi vì đã có lần tôi nhìn thấy trên tivi một biển lúa chín vàng, nhưng cả mấy chục cây số trên đường đi, không thấy lúa vàng.
Từ lâu tôi đã có ý nghĩ con người được sống gần cây cối, sông ngòi, được tự tay khai thác những sản vật còn tươi nguyên từ đất đai, nó sẽ làm cho người ta trở nên hiền hòa, nhu nhị. Mọi người sống dưới những vòm lá xanh ấy chắc chắn có một trái tim thanh sạch tình đồng loại. Những ý nghĩ độc ác cũng được nhuộm xanh để trở nên thánh thiện và ôn hòa.
Nhìn trên bản đồ thế giới, đất nước của họ hẹp lắm, có chỗ mảnh như một sợi chỉ giữa một phía là biển cả và một phía là lục địa.
Cái khách sạn tôi đang nghỉ đây có cả núi ở phía sau và biển ở phía trước. Không hiểu đằng sau những dãy núi trùng điệp kia thì nhà cửa và làng mạc của người Việt tổ chức như thế nào. Tôi tưởng tượng nếu phía ấy có làng mạc, họ phải mở đường cắt núi mà đi. Nghe nói đằng sau những dãy núi kia cũng có một con đường mà Việt Nam đặt tên là đường Hồ Chí Minh, tên vị chủ tịch đầu tiên của nước họ, tiếng tăm lẫy lừng khắp nơi.
Con đường ấy đầu tiên là đường mòn Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã hành quân, vác súng đạn đi bộ mở con đường trên dãy núi Trường Sơn đưa người và vũ khí từ miền Bắc vào miền Nam để đánh đuổi người Mỹ đang chiếm đóng đất nước của họ.
Bây giờ nghĩ lại thấy cũng lạ, một siêu cường như Mỹ, vũ khí hiện đại bậc nhất thế giới, con đường nào của họ cũng hiện đại từ hạm tàu trên đường biển đến pháo đài bay trên không đến các con đường quốc lộ vững chắc vây chặt và chọc thẳng vào dãy Trường Sơn như những con bạch tuộc ôm chặt con mồi, bom đạn thì nhiều khủng khiếp mà phương tiện thì hiện đại thế mà họ lại thua một con đường mòn. Không biết các nhà báo, nhà văn ở nước mình họ có dịch sai không mà lại gọi con đường dân tộc Việt Nam tựa vào để đối chọi với đế quốc Mỹ chỉ là một con đường mòn. Đó là những ý nghĩ bỗng vụt ra trong đầu óc ngỡ ngàng của tôi khi vừa đặt chân đến khách sạn này, lúc còn mặt trời. Nhưng lúc này màn đêm đã khép lâu rồi, đầu óc tôi lại xuất hiện bao ý nghĩ về những điều được nghe được thấy khác.
Vừa mới đây thôi, nhân viên phục vụ, theo yêu cầu đã mở cho tôi xem một chương trình của Đài Truyền hình Hà Nội trên tivi và tôi hứa trả thêm tiền nếu họ chịu ngồi lại thuyết minh cho tôi biết chương trình nói về cái gì.
Họ đang có chương trình truyền hình trực tiếp kỷ niệm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển. Nghe cô phiên dịch nói thì hầu hết các nhân vật trên tivi đều dùng từ đường mòn Hồ Chí Minh trên biển. Lại đường mòn. Sao người Việt Nam họ thích dùng chữ “mòn” thế nhỉ. Ngẫm nghĩ lại có cái gì vô lý ở đây. Trên biển thì lấy đâu ra đường mòn. Cô phiên dịch còn dẫn giải theo các hình ảnh trên màn hình rằng có những con tàu phải dạt xa tận vùng biển các nước Đông Nam Á rồi từ đó lừa thời cơ tăng tốc lao vào phía đất liền, ở đấy các đồng chí của họ chờ sẵn ở các vũng, các cửa sông để nhận vũ khí và người của miền Bắc chi viện cho vùng giải phóng miền Nam.
Tôi vừa tận mắt nhìn thấy những người trong cuộc chiến đấu trên biển kể lại sự chiến đấu quả cảm của họ khi bị tàu đối phương vây. Họ đã bình tĩnh chiến đấu không hề dao động. Đến lúc biết tình thế không thể thoát được, người chỉ huy của họ đã ra lệnh cho cấp dưới nhảy xuống biển bơi vào bờ. Trong một con tàu nhỏ nhoi mà gài tới một tấn thuốc nổ, sức công phá của nó có thể hất tung một con phố, một đường hầm. Người chỉ huy chắc chắn biết mình biến thành nước nhưng thật điềm tĩnh chập mìn.
Ngẫm nghĩ lại những thước phim vừa xem, tôi bỗng giật mình như vừa phát hiện ra một điều kỳ lạ. Nếu ví Việt Nam như một võ sĩ, tay phải là đường mòn Hồ Chí Minh trên núi Trường Sơn, tay trái là đường mòn Hồ Chí Minh trên biển, hai con đường đó khác nào như hai cánh tay xiết cổ con mãnh thú.
Cứ loay hoay mãi với chữ “mòn”. Phải chăng chữ mòn đây mang màu sắc ngữ nghĩa học chứ không phải tu từ học. Chữ đường mòn đây là người Việt Nam đã thuộc lòng và hiểu rằng đó là con đường duy nhất, không có sự lựa chọn thứ hai, nó đã ăn sâu trong ký ức người Việt.
Nếu tôi là người Việt Nam và họ đồng tình với ý nghĩ vừa lóe lên trong óc tôi, tôi sẽ nói rằng: các đế quốc nhớ giùm, nước chúng tôi có cả hai con đường nhưng đã hiện đại rồi, đụng đến chúng tôi là no đòn.
Chắc đã khuya rồi mà sao hôm nay tôi bỗng trở thành một người hay triết lý thế nhỉ. Chả lẽ cái đất nước này có “ma” hay sao mà bỗng thay đổi cả tính tình của tôi.
Ngày N+1….2011
Chương trình du lịch hôm nay được gọi là điền dã. Cô phiên dịch dịch từ tiếng Việt là miệt vườn, còn kho từ vựng của nước tôi không thấy từ này, chắc là do phát âm của họ thành quen.
Hiếm thấy ở đâu mà đất đai lại màu mỡ, phì nhiêu như vùng cây trái tôi tham quan hôm nay. Nắng vàng và bầu trời trong xanh nhưng dưới mặt đất chỉ lốm đốm những giọt nắng như những chiếc lá rơi. Không thấy một hòn sỏi nhỏ. Nhiều cô gái bàn chân mỏng mảnh bước trần trên đất. Lúc đó tôi cũng muốn bỏ giày ra đi chân đất để bàn chân được tiếp xúc với đất mềm mại nơi miệt vườn của họ.
Cũng tại tôi chú ý nhiều đến mặt đất mà phát hiện ra ông chủ nhà có những ngón chân kỳ lạ. Hai ngón cái như muốn tách ra khỏi các ngón con để châu đầu vào nhau. Tôi vừa nhìn vừa nghĩ, đôi bàn chân kia thì đi giày thế nào, chả lẽ họ lại có đôi giày mũi to hơn gót.
Hình như nhìn thấy sự chăm chú của tôi vào đôi chân, ông chủ nhà cười vang hết cỡ, ông nói rổn rảng. Người phiên dịch nói rằng, ông tự hào là hậu duệ của người giao chỉ cổ xa. Giao chỉ là hai ngón chân cái quay vào trong.
Tôi tưởng tượng, hai bàn chân kia bám rất chắc trên mặt đất của quê hương họ. Tôi bật nghĩ nếu có môn thể thao đẩy tay đôi đối kháng thì bàn chân kia có lợi thế một hình chân đế rộng, diện tích tiếp xúc lớn hơn nên đối phương thua cuộc là cái chắc.
Lúc nghỉ trưa sau bữa ăn, họ trình diễn những bài hát dân ca Bắc, Trung, Nam của nước họ. Nam nữ diễn viên trẻ và mặc áo quần tươi màu. Người phiên dịch có dịch lời một bài ca cổ, có nghĩa là:
Ai đi đâu đó hỡi ai
Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm
Họ tự ví mình là cây trúc cây mai, một sự ví von thanh sạch và hiền hòa. Hình như trúc mai cũng có mặt trong bộ tranh tứ bình tượng trưng cho bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Họ vừa là hoa lá, vừa là bầu trời. Những con người tưởng tượng như thế thì thâm thúy thật.
Trớc khi ra về, ông chủ nhà cho tôi một quả bưởi mà người phiên dịch nói rằng ông ta biếu tôi. Tôi không hiểu từ “biếu”, người phiên dịch giảng rằng biếu là hình thức người dưới dâng loại của cải gì đó cho người trên. Ông chủ nhà nhiều tuổi hơn tôi, đáng tuổi cha chú tôi mà lại biếu tôi. Thật là một đức tính khiêm tốn.
Tôi nghe kể Chủ tịch Hồ Chí Minh của họ cũng khiêm tốn lạ thường. Chuyện kể rằng, năm 1948, trong lúc đang có chiến tranh với Pháp, Cụ Hồ phong tướng cho quân đội của Việt Nam. Trước sự kiện đó, có một nhà báo nước ngoài hỏi chủ tịch của nước Việt Nam rằng Việt Nam chưa có trường sỹ quan nào làm sao mà phong hàm cấp được. Vị chủ tịch của họ nói đại ý, cuộc chiến tranh của Việt Nam là chiến tranh du kích nên phong tướng tá cũng theo kiểu du kích tức là họ cứ đánh thắng đối phương cấp nào thì được phong cấp đó cho sỹ quan Việt Nam. Cái kiểu đào tạo sỹ quan như thế thì chưa có nơi nào làm được. Đức khiêm tốn của người Việt Nam dường như được tích lũy năng lượng từ lịch sử hình thành dân tộc của họ.
Chúng tôi vừa ăn bưởi do ông chủ vườn biếu. Tôi sực phát hiện một điều mùi vị của tép bưởi rất giống với hột lựu của nước tôi cũng chua dôn dốt, ngòn ngọt, giòn. Càng ngẫm nghĩ càng thấy hai thứ quả đó có cái ruột rất giống nhau về hương vị, chỉ khác nhau về hình dáng: tép bưởi thì dài, còn hột lựu thì tròn.
Tôi tự thưởng cho mình một ly rượu với cái ý nghĩ so sánh của mình. Tôi suy rộng tầm nhìn, thấy các dân tộc có thể khác nhau nhiều về phong cách, văn hóa và cả màu da nữa nhưng vẫn có chung một phẩm chất đó là sự ngọt ngào của tâm hồn, là những ước mong hiền hòa, thánh thiện.
Nếu tôi là nhà văn, nhà thơ thì cái ý tưởng này của tôi có thể hái ra tiền qua tác phẩm đấy. Tiếc rằng tôi không làm được như họ. Tiếc thật.
Ngày N+2….2011
Hôm nay chúng tôi xuống tàu thăm một làng chài. Khi tôi bước sang một chiếc ghe gỗ có mui tôi nhìn lên phía trên gần nóc mui có một bàn thờ, một tấm ảnh và một bằng Tổ quốc ghi công của Việt Nam. Đây là một gia đình có con là liệt sỹ của Việt Nam. Người phiên dịch đọc cho chúng tôi người lính Việt Nam có tên là Nguyễn Bạch Đằng, hy sinh ngày 14 tháng 3 năm 19…
Nghe đến đây cả người tôi như chạm vào một dòng điện. Một cảm giác lạ lắm chạy dọc sống lưng tôi. Và từ đó tôi như chẳng nghe, chẳng nhìn thấy gì cả mà chỉ thấy hình ảnh người liệt sỹ kia như bằng xương bằng thịt hiện ra từ tấm ảnh, cái đôi mắt ấy không thể nào lẫn vào đâu được. Cái ngày ấy cũng không thể nào quên được trong cuộc đời quân ngũ của tôi.
Hôm ấy chúng tôi được lệnh cùng một lúc tấn công vào 3 cột mốc tiêu biểu của Việt Nam trên đảo Trường Sa. Đơn vị của tôi được lệnh đánh chiếm một trong ba mục tiêu đó và có tên Việt Nam là đảo Gạc Ma.
Chúng tôi được giáo dục rằng đây là những nơi Việt Nam lấn chiếm của đất nước chúng tôi. Chúng tôi phải đánh để trừng trị họ.
Khi triển khai nhiệm vụ trên sa bàn chiến lệ, chỉ huy của chúng tôi nói rằng phía đối phương tức là phía quân đội Việt Nam có đủ thứ vũ khí hiện đại. Trong tay họ có mìn định hướng, B40, B41, súng đại liên, tiểu liên. Họ được huấn luyện rất tốt, chiến đấu rất gan góc. Sở trường của họ là đánh đêm.
Tuy nhiên thế mạnh của chúng tôi là quân số áp đảo. Tất cả các đơn vị to lớn phía sau sẵn sàng tiếp ứng chúng tôi. Các phương tiện của chúng tôi cũng áp đảo họ.
Giờ G nổ súng là vào đúng 6 giờ sáng, lúc đó trên đảo có ánh sáng mặt trời, để phát huy tối đa ưu thế quân số áp đảo của chúng tôi và tránh ưu thế đánh đêm của đối phương.
Trước đó thì nghĩ nhiều nhưng khi chuẩn bị bước vào đánh chiếm đảo thì tôi chỉ có ý nghĩ làm sao mình không bị bắn và tìm cách hoàn thành nhiệm vụ của người lính. Tất cả đơn vị tôi xem ra ai cũng căng thẳng.
Sau khi bắn cháy tàu chiến của họ, chúng tôi chiếm chân đảo. Không khí cực kỳ căng thẳng khi trên đảo im phắc, chỉ có tiếng sóng vỗ ào ạt xô vào đảo.
Tôi chờ đợi giây phút bùng nổ để lao về phía trước. Chúng tôi đã tiến vào tầm bắn của súng bộ binh. Vẫn không có súng nổ phía trước. Giữa lúc ấy tôi nghe tiếng loa bằng thứ tiếng của nước tôi. Chúng tôi đã được quán triệt phải tỉnh táo để tránh mắc mưu tuyên truyền của Việt Nam. Tôi lắng nghe xem phía Việt Nam họ nói gì. Thì ra họ nói họ với chúng tôi là hai dân tộc anh em. Tôi nhớ gần như nguyên văn tiếng loa phát thanh bằng tiếng nước tôi, họ nói rằng chúng tôi đề nghị các bạn hãy tôn trọng luật pháp quốc tế rút khỏi khu vực quân đội nhân dân Việt Nam kiểm soát. Họ đề nghị chúng tôi đừng nổ súng. Thế thì không được rồi, tôi nghĩ thế.
Chỉ huy của chúng tôi lại ra lệnh nổ súng và chúng tôi nghe tiếng súng mà lao về phía trước. Rất gần công sự của đối phương. Phía trước vẫn không có sự kháng cự nào. Hay là họ quá hoảng sợ trước quân số tràn ngập của chúng tôi. Tôi như được kích thích lao rất nhanh về phía trước. Và như trên trời rơi xuống, trước mặt tôi là một người lính Việt Nam.
- Dừng lại! Tôi nghe tiếng người lính kia thét lên như thế.
Tôi đã giương lê và trong một tư thế không thể lui, tôi xông thẳng về phía đối phương. Anh ta vừa hét vừa cầm ngang súng tiểu liên đỡ nhát đâm của tôi đẩy lên cao trong một động tác thành thục và mạnh mẽ. Thoáng trong đầu, yếu lĩnh tiếp theo của tôi là lùi lại để lấy đà phóng một đường lê tiếp nhưng tôi chưa kịp lùi thì đồng đội tôi ở phía sau đã vụt lao lên như một tia chớp đen cắm lưỡi lê vào người lính trước mặt tôi. Do mắc phải đối phó với tôi, người lính kia không gạt được mũi lê thứ hai nên ngã ra phía sau làm cả tôi và đồng đội tôi lao chúi về phía tước. Ngay sau đó là cú đạp hai chân của đối phương làm cả hai chúng tôi đều bật về phía sau. Đó là một cú đạp vô thức vì người lính đối phương đã bị đâm vào ngực. Khi ấy tôi nhìn thấy đôi mắt của anh ta mở rất to, không hề run sợ, từ hốc mắt vẫn phóng ra những ánh nhìn dữ dằn, căm giận.
Chúng tôi đã tiếp cận sát cột mốc trung tâm đảo. Tôi thấm mệt và dường như run sợ trước cái nhìn của xác chết. Tôi né sau một tảng đá. Chỉ nghe thấy tiếng súng phía chúng tôi. Phía trước, phía cột mốc tôi nhìn rõ phía đối phương, những binh lính trang phục hải quân mới nguyên như những đơn vị danh dự, họ nắm tay nhau che kín cột mốc. Họ không cầm súng và họ hát. Âm điệu bài hát tôi đã nghe nhiều lần nhưng không biết lời. Đó là một bài hát hành tiến. Mãi sau bạn tôi dịch bài quốc ca của họ, tôi thấy có những đoạn đầy hào khí và dữ dội:
Đoàn quân Việt Nam đi. Chung lòng cứu quốc…
… Đường vinh quang xây xác quân thù…
… Vì nhân dân chiến đấu không ngừng…
Rất nhiều đồng đội của chúng tôi ùn lại, ngơ ngác vì phía trước chỉ có những người tay không và vũ khí chống lại chúng tôi chỉ là tiếng hát. Chỉ huy của chúng tôi thét lệnh bắn tiếp. Và súng của chúng tôi nổ dữ dội cho tới khi không còn tiếng hát nào nữa.
Tôi quay lại điểm xuất phát, một chiến sỹ cùng tiểu đội tôi bị chỉ huy bắt quay lại thu vũ khí làm bằng chứng chiến thắng. Một lát sau bạn tôi chạy theo tôi như ma đuổi. Anh ta đưa khẩu súng cho chỉ huy và nói với tôi, anh ta phải gỡ những ngón tay nắm chặt cây súng, mồm lẩm bẩm khấn hồn ma hãy tha thứ vì chỉ làm theo lệnh của trên.
Trong đầu tôi lúc đó cứ âm âm cái bài ca của họ như một đám mây dày đặc quây chặt quanh tôi.
Trước khi quay mũi tàu, chỉ huy của chúng tôi ra lệnh xả đại liên lên cột mốc trong một cự ly sát thương hiệu quả nhất. Tôi tính toán trên kia có nhiều lính của Việt Nam chết tới lần thứ 2, thứ 3 vì hỏa lực dày đặc của chúng tôi. Họ đã chấp hành mệnh lệnh chiến đấu còn hơn cả những người tử vì đạo. Họ kiên quyết lấy thân mình bảo vệ cột mốc chủ quyền biển đảo của họ.
Đoàn quân chiến thắng quay về phía xuất phát mà không có một tiếng còi, không có một âm thanh rộn rã nào, cứ như là chúng tôi vừa làm một việc gì đó mờ ám trở về.
Đến tàu lớn, tôi để ý thấy thượng cấp của chúng tôi đi lại nôn nóng nét mặt đăm chiêu, cau có. Sau khi nghe chỉ huy của chúng tôi báo cáo, vị thượng cấp quát ầm lên sao lại không có ai hy sinh, không có ai bị thương vì đạn đối phương. Vì đối phương không đánh trả nên chúng tôi không thể hy sinh được, chỉ huy của chúng tôi báo cáo.
Câu quát tháo ấy cũng là câu hỏi của tôi. Đối phương là một đội quân thiện chiến và dũng cảm. Dân tộc họ chưa hề biết thất trận. Họ lại vừa đánh thắng một đế quốc hùng mạnh và giàu có, hiện đại bậc nhất thế giới. Tôi còn được biết chỉ huy của họ là nhà quân sự kiệt xuất của thế giới, ông ta, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn còn sống. Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn đang trực tiếp chỉ huy quân đội của ông ta. Cổ nhân đã đúc kết người đẹp và tướng tài thường đoản mệnh, thiên hạ ít khi nhìn thấy họ sống đến lúc bạc đầu. Võ Nguyên Giáp đã 100 tuổi. Hẳn ông ấy phải dày dạn kinh nghiệm chiến trường. Nhưng ông đang chỉ huy một chiến thuật đến kỳ lạ dường như chưa từng xuất hiện trong binh pháp tự cổ chí kim. Câu hỏi cứ như một lưỡi câu móc vào óc tôi như mắc vào một mang cá, cố quẫy để thoát ra mà không đợc.
Một điều khó hiểu lại xuất hiện, tại sao thượng cấp lại bất bình khi người chiến sỹ của mình yên bình trở về sau trận đánh. Họ cần trong chúng tôi có người bị bắn chết để làm gì???
Hôm nay, trước đôi mắt của người lính Việt Nam ở làng chài kia những câu hỏi ngày ấy lại trỗi dậy. Tôi láng máng nhớ lại cái tên của người hải quân ấy, nó là tên một con sông mà trên đó ông cha họ xa xưa đã có những trận đánh thắng vang dội quân xâm lược. Cha mẹ họ hồ hởi đón chúng tôi, nướng hải sản tươi sống trên bếp than hồng. Sao tôi ăn như nghèn nghẹn nơi cổ họng.
Đầu óc căng thẳng quá. Phải uống mấy viên an thần mới dỗ được giấc ngủ.
Ngày N+3….2011
Hôm nay là ngày tự do của mỗi người trong đoàn.
Tôi rời nơi nghỉ xuống đường và đã được chỉ dẫn đi về phía chợ.
Cảnh chợ búa cũng nhộn nhịp như đất nước của tôi. Hàng hóa của nước tôi tràn ngập các cửa hàng của họ.
Tôi quan sát thấy mọi người đi chợ, người mua và người bán đều vui vẻ, tươi tắn.
Tôi để ý thấy gương mặt nào cũng nở nụ cười khi chào nhau. Người nữ bán hàng nở nụ cười trên khuôn mặt đẹp chào tôi khi tôi bước vào gian hàng và khi tôi không mua gì, chỉ xem thôi, cô ta vẫn chào tạm biệt tôi với nụ cười như thế.
Tôi nói lại nhận xét này với mấy người trong đoàn. Ai cũng đồng ý với tôi, coi đó như là một đặc sản văn hóa của dân tộc họ.
Có thể rút ra một đặc điểm ứng xử văn hóa của dân tộc Việt Nam là hiền hòa không? Cứ như những người chúng tôi từng gặp suốt mấy ngày qua, tôi thấy họ rất gần gũi, rất muốn giao lưu với chúng tôi.
Mà sao thế nhỉ? Tôi có hay cả nghĩ đâu. Bạn bè thường bảo tôi sống đơn giản, làm gì cứ ào ào. Cái đất nước này cứ như “ma mị” thế nào ấy. Nó dẫn dụ mình vào, nó mở ra cho mình nhiều chân trời lạ lùng và hấp dẫn, nó cho mình những bài học rất bổ ích và cần thiết. Lạ quá!
Ngày N+4 năm 2011
Hôm nay chỉ đi tham quan nửa ngày, đi gần, đi ít để giữ sức ngày mai lên đường về nước. Thăm Bảo tàng Văn hóa các dân tộc của Việt Nam. Bảo tàng nhìn chung còn sơ sài. Điều gây ấn tượng nhất với tôi hôm nay là chúng tôi được dẫn đến thăm một ngôi nhà, chủ nhà là Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Tôi được giới thiệu bà có một con trai duy nhất hy sinh trong chiến tranh giải phóng vừa qua. Người phiên dịch cho biết người được phong danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng là người có một con duy nhất hoặc 3 con hy sinh.
Ôi! Cái tiêu chuẩn của một danh hiệu sao mà khốc liệt như vậy.
Cứ nhìn ngôi nhà và các vật dụng trong gia đình, tôi thấy bà cụ không còn con cái nhưng vẫn được chăm sóc tốt. Tôi hay lan man nghĩ, lan man so sánh. Bà cụ ngồi trước mặt tôi kia giống mẹ tôi, chỉ có tôi là con trai duy nhất. Nếu như tôi chết đi hoặc giả dụ tôi hy sinh trong trận đánh lên đảo ngày 14 tháng 3…ấy thì bây giờ mẹ tôi sẽ ra sao. Bà mẹ Việt Nam anh hùng kia rất trầm tĩnh, dường như những đau thương đã chạm ngưỡng và buộc con người ta phải chấp nhận nó, không thể trốn tránh được. Tuy nhiên đôi mắt già nua của cụ như một ngọn lửa buồn, nó có thể thiêu cháy mọi toan tính của những kẻ gây ra tội ác.
Bỗng lúc ấy trong óc tôi lại hiện lên hình ảnh người lính Việt Nam, cường tráng mạnh mẽ và đôi mắt cũng mở to, có thể từ xóm làng quê hương anh ta đã nhìn thấy cảnh bà mẹ này. Anh ta không muốn bất cứ người mẹ nào trên thế gian chịu nỗi đau mất con. Chính anh ta đã cứu sống tôi, chính anh ta đã chết do đồng đội của tôi gây ra. Dũng cảm chiến đấu để tránh cái chết cho đối phương, cái nghĩa cử thấm sâu trong hành động của người lính Việt Nam ấy vượt khỏi mọi sự định nghĩa thông thường về lòng dũng cảm. Chắc chẳng có từ điển bách khoa toàn thư nào diễn giải được. Trận đánh của đơn vị tôi hôm ấy đã lùi xa hơn 10 năm, tôi có thời gian để suy ngẫm. Dường như phía Việt Nam họ có lệnh không được nổ súng về phía chúng tôi. Họ kết thành vòng tròn xung quanh cột cờ chủ quyền của họ, họ bảo vệ cờ bằng những lời kêu gọi và tiếng hát thiêng liêng của đất nước họ. Trước một dạng thức chiến đấu ngoài mọi phương án, cờ chủ quyền của họ được giữ vững. Chúng tôi rút ra ngoài tàu. Tôi là người lính được giáo dục: kỷ luật là sức mạnh của quân đội. Với một kỷ luật của họ như thế thì ít có đối thủ nào xứng tầm với sức mạnh của họ. Chính nhờ kỷ luật ấy mà tôi được toàn mạng.
Tôi thầm cảm ơn người lính Việt Nam tôi vừa nhìn thấy trên ảnh thờ ngày hôm qua. Tôi cũng muốn thay mặt mẹ tôi cảm ơn anh ta. Anh lính Việt Nam ấy đã tránh cho cha mẹ, họ hàng tôi một nỗi đau nhân thế.
Ngày mai tôi sẽ rời đất nước này để kết thúc “tua” du lịch. Tôi tranh thủ ghi mấy trang nhật ký này như sự khám phá chính bản thân mình qua chất xúc tác của đất nước và con người Việt Nam. Tôi sẽ cố thu xếp cho con trai tôi đi lại “tua” du lịch này, khi nó về tôi sẽ đưa cho nó đọc những dòng này, xem cha con tôi có được bao nhiêu điều trùng hợp với nhau. Ngày mai tôi sẽ xa các bạn Việt Nam. Trên mỗi nơi tôi từ giã đều có dòng chữ “Hẹn gặp lại”. Thấp thoáng sau dòng chữ đó là nụ cười mến khách và trung thực mà ta có thể hoàn toàn tin cậy được.
Vâng! Hẹn gặp lại. Việt Nam…
Vĩ thanh: Tôi biết nhật ký là nỗi lòng riêng tư, là kỷ niệm riêng biệt của mỗi người. Nhưng cuốn sổ nhật ký này không có bất cứ một địa chỉ, một số điện thoại nào nên không biết tác giả của nó hiện nay đang ở đâu.
Tôi lại được biết báo chí của ta không chỉ lưu hành trong nước mà còn phát hành ra quốc tế, trước tiên là có mặt trong các đại sứ quán nước ngoài ở Hà Nội.
Tôi hy vọng, với nội dung tập nhật ký này, tác giả nhận ra mình. Ai là chủ nhân hãy gửi địa chỉ cho tôi, tôi sẽ gửi trả lại theo đường bưu điện quốc tế.
Địa chỉ của tôi là: LTT, số nhà XY…. Việt Nam.
L.T.T