Thơ Ông Văn Khôi - Những giá trị sống dung dị
Nhà thơ Ông Văn Khôi
Ông Văn Khôi không phải là người viết chuyên nghiệp, nghề chính của ông là dạy học. Tốt nghiệp khoa Ngữ Văn Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1967, ông trở thành thầy giáo dạy văn cho đến khi rời bục giảng, nghỉ hưu năm 2003 tại Đà Nẵng. Gắn bó với văn chương nên ngoài công việc chính, ông còn viết nhiều, chủ yếu là thơ ca và một số tiểu luận về nghề. Đến nay, Ông Văn Khôi đã cho ra mắt nhiều tập thơ do các nhà xuất bản lớn ấn hành. Có thể kể đến một số tác phẩm như Gửi nhớ theo sông (NXB Hội Nhà văn, 1915), Sân trường dấu yêu (NXB Đà Nẵng, 2016), Năm tháng vơi đầy (NXB Đà Nẵng, 2017) Danh nhân đất Việt (NXB Đà Nẵng, 2018) và gần đây nhất là Nơi trở về (NXB Đà Nẵng, 2019).
Nhà giáo Ông Văn Khôi từng trải lòng: “Bảy mươi lăm năm cuộc đời cũng là bảy mươi lăm năm đất nước trải qua bao biến động… Cuộc đời và đất nước với nhiều đổi thay khiến mỗi người không thể không suy nghĩ để lòng luôn xáo động với bao nỗi vui buồn”. Những nỗi niềm ấy, ông đã gửi gắm vào từng câu chữ, ý tứ. Thơ chính là tiếng lòng của ông, cuộc đời của ông, từ thủa còn là cậu bé học sinh miền Nam trên đất Bắc, một sinh viên đại học, một thầy giáo dạy văn cho đến bây giờ. Có thể nói, đất nước và con người, nghĩ suy và trải nghiệm là những điều Ông Văn Khôi muốn giãi bày, chia sẻ trong thơ mình. Thơ Ông Văn Khôi chân thực đến cảm động. Đó là cuộc sống cùng những biến động đau thương, gian khó, khải hoàn. Đó là con người cùng những mất mát, hy sinh, những tâm hồn đẹp, cao thượng và bình dị. Đó là những tâm sự khắc khoải, đau đáu với đời, với nghề. Và sau tất cả, chính là những giá trị sống mà chúng ta vẫn thường trân trọng.
Giá trị sống không phải là những thứ xa vời. Giá trị sống đến từ những điều đơn giản xung quanh chúng ta. Con người tri giác sự vật, sự việc và nhận thức cuộc sống khác nhau nên cách cảm nhận về giá trị sống cũng khác nhau. Tuy nhiên, trên nền chung của nhận thức xã hội, giá trị sống là những điều quý giá giúp con người ta hướng đến Chân - Thiện - Mỹ để hoàn thiện bản thân, mưu cầu hạnh phúc.
Trong thơ mình, Ông Văn Khôi không chú tâm luận giải về giá trị sống. Ông sống với cảm xúc, trải nghiệm và tích lũy từng chi tiết đời thường để rồi sẻ chia, giãi bày chân thành đến khắc khoải. Từ đó, như một lẽ thường tình, những giá trị sống trong thơ ông cứ sáng dần trong một vẻ đẹp tự nhiên, hài hòa như chính cuộc sống. Tình yêu thương, lòng biết ơn, sự trân trọng từng giây phút sống, niềm tin cùng tinh thần lạc quan vượt qua cảnh ngộ,… là những giá trị sống dung dị mà người đọc cảm nhận được khi tiếp xúc với thơ của ông và con người thực của ông.
Rời xa gia đình và quê hương Đà Nẵng ngay khi còn nhỏ tuổi, Ông Văn Khôi được sống trong vòng tay yêu thương đùm bọc của nhân dân miền Bắc suốt thời gian học tập và trưởng thành. Nỗi thương nhớ quê hương miền Nam còn chìm trong khói lửa luôn đau đáu trong tim ông: Một tiếng chim kêu cũng nhớ nhà/ Ơi những em thơ những mẹ già/ Giờ đây ai mất ai còn nhỉ/ Nghe tiếng chim rừng gọi xót xa (Một tiếng chim). Quê hương trong nỗi nhớ của ông không chỉ có khói bom, mất mát mà còn là một quê hương quật khởi, anh hùng và chính điều đó đã thôi thúc ông, khiến ông càng khao khát: Vọng từ quê hương tiếng súng công đồn/ Nghe gió miền Nam thổi lộng tâm hồn/ Ta ước mơ trở về tay súng/ Giữa quê hương dẫu chết cũng cam lòng (Một tiếng chim). Quê hương trong thơ Ông Văn Khôi còn là những gương mặt người thân cùng những cuộc đời bi tráng. Đó là người cha liệt sĩ đã hy sinh trong công cuộc giải phóng dân tộc. Đó là người chú ruột trong đoàn quân hào hùng ra trận và mãi mãi không trở về: Độc lập, tự do tiếng lòng reo náo nức/ làm con sóng chú đi trong thác lũ cuộc đời (Tưởng niệm).
Thơ Ông Văn Khôi còn dành những thương quý, nâng niu khi khắc họa hình ảnh người phụ nữ. Đó là người mẹ, người cô, người chị của ông, hiện thân của những người phụ nữ miền Nam mà cả cuộc đời tận tụy lo toan cho gia đình thay chồng đang chiến đấu hay thay cha mẹ nhọc nhằn nuôi em: Mẹ lại tảo tần lên rừng xuống biển…/Chung lòng nuôi con nuôi cách mạng trọn đời/ Nhẫn nại hi sinh không than thở một lời (Mẹ tôi). Hình ảnh người chị gái một đời nhẫn nại được ông nhớ lại trong ký ức bằng những chi tiết chân thật đến xót lòng: Gió lạnh trăng khuya trông nhầm trời sáng/ Chân thấp chân cao đường xa đồng vắng/Rách áo, thiếu cơm, chẳng nói một lời (Chị tôi).
Đặc biệt, Ông Văn Khôi đã dành nhiều tâm huyết, bút lực để nói về người vợ tào khang, đã đồng hành cùng ông trong suốt chặng đường hơn nửa thế kỷ. Ông bà gặp nhau và nên duyên ở Quảng Bình những năm bom rơi đạn nổ. Khi ấy, ông là một giáo viên trẻ, xung phong vào tuyến lửa và bà là thanh niên xung phong trở về từ Trường Sơn ác liệt. Một tình yêu đẹp nhưng cuộc sống không mấy thảnh thơi bởi khó khăn, bệnh tật dai dẳng khiến ông bà vất vả đến tận bây giờ. Ấy vậy mà những vần thơ viết tặng vợ của Ông Văn Khôi vẫn thấm đẫm yêu thương, chia sẻ. Ông viết về vợ bằng sự trong trẻo của ký ức, bằng cảm nhận khắc khoải của hiện tại và bằng cả những khát khao về một tương lai an lạc: Đêm đêm nườm nượp người xe đổ vào chiến trường ào ào như thác/ trong đó có em giọt nước trong veo/cánh võng giữa rừng làm mảnh trăng treo/ từ đó em là chiến sĩ (Viết cho em, cô TNXP ngày ấy); Dìu nhau qua gian nan… em chưa được ngày vui trọn vẹn/ bé nhỏ đôi vai gánh đời trĩu nặng/ Giã từ tuổi xuân cho mái ấm gia đình/ cho chồng cho con chẳng có cho mình (Mừng em lên lão); Em vượt qua bạo bệnh/ Kịp mừng tuổi sáu lăm/ Xin em vì tất cả/ Mình tròn nghĩa trăm năm (Cầu mong).
Trong bối cảnh xã hội hiện đại nhiều khó khăn, thách thức, đây đó phải đối diện với sự suy giảm của những giá trị đạo đức, sự lỏng lẻo của cấu trúc gia đình, những vần thơ mộc mạc thấm đẫm tình người của Ông Văn Khôi như một lời khẳng định về một giá trị trường tồn của cuộc sống, giá trị của lòng yêu thương.
Tình yêu của Ông Văn Khôi còn dành cho nghề dạy học, cái nghề mà ông gắn bó cả một đời người: tôi đã đi trọn kiếp làm thầy/ biết mấy buồn vui đong lắc vơi đầy/ Con tằm nhả tơ một đời nhẫn nại (Nhìn lại). Người thầy giáo không phút nào rời xa bục giảng ấy đã gọi những công việc bình thường của mình là thiên chức người thầy. Và, ông đã sống hết mình vì thiên chức đó với học trò và đồng nghiệp ngay cả khi tay súng tay phấn, đối diện với sự khốc liệt của chiến tranh hay khi đau đớn ôm thi thể học trò sau một trận bom dữ dội tan hoang mái trường.
Ông Văn Khôi đã từng sống và dạy học ở nhiều vùng đất, sự trải nghiệm, vốn sống và thời gian là tài sản vô giá của ông. Vì vậy với ông, giá trị vật chất hay giá trị thời gian không đơn thuần đo đếm được. Cuộc sống ắp đầy những biến cố, những sự kiện, những vui buồn đã giúp ông ý thức được giá trị thời gian của riêng mình: bè bạn, học trò, bao người ra đi không về nữa/ Quảng Bình cho con thêm một cuộc đời (Theo lời Bác). Ông mang ơn cuộc sống, con người. Ông trân trọng tất cả những gì đã làm nên ngày hôm nay của mình cho dù đoạn đường đi chưa phải đã hết gian nan, khó nhọc: Thiên lý vạn sầu bão giông bỏ mặc/ Giọt lệ tạ ơn năm tháng cứ vơi đầy (Giọt lệ tạ ơn). Với Ông Văn Khôi, cuộc sống càng áp lực bao nhiêu thì lòng biết ơn giúp ông giải tỏa được bấy nhiêu. Ông nâng niu từng nụ cười, từng giọt nắng bởi chúng không chỉ làm dịu lòng những lúc nhọc nhằn mà còn cho ông thêm sức lực: Khi ta cười lên/ Đời như trẻ lại/ Để đời là mùa xuân mãi mãi/Là nỗi đau chôn chặt tự lòng sâu (Cảm ơn). Điều này lý giải vì sao tiếng cười luôn hiện hữu trong thơ ông. Khi là tiếng cười sảng khoái bỏ qua tất cả khó khăn, bệnh tật. Khi thì ý nhị dí dỏm tự cười nhạo mình. Tinh thần lạc quan đã giúp ông nhìn cuộc sống hiện tại nhẹ nhàng hơn và hướng về một ngày mai dễ dàng hơn: Đủng đỉnh bước vào tuổi bảy mươi/ Gian nan bệnh tật vẫn cười tươi/ Vẫn gắn với đời say bục giảng/ Ai cấm ta đi trọn kiếp người (Bảy mươi). Và, ông đã bình tĩnh sống như vậy trong tư thế của người nắm trọn ý nghĩa cuộc đời mình: Tung bờm nước đại cứ phi/ Hí vang ngạo nghễ sá gì gian nan/ Cuộc đời rồi sẽ bình an/ Bình tâm tự tại kiếp nàn sẽ qua (Nghĩ từ một ngày).
Thầy giáo Ông Văn Khôi đã gần sang tuổi tám mươi. Trái tim của ông không còn khỏe, cần có sự can thiệp của y học. Những ngày này, ông vẫn đọc và viết, thăm con cháu, gặp gỡ bạn bè. Nhưng có một công việc quan trọng mà hằng ngày ông không thể xao nhãng. Đó là vai trò của một điều dưỡng viên tận tụy, chuyên nghiệp, chăm sóc người vợ của mình từ mũi tiêm, viên thuốc đến bữa ăn, giấc ngủ một cách chu toàn, đầy yêu thương. Trong bộn bề ấy, ông vẫn mong muốn: Cho ta một phút bình yên/ Để nghe thấm đẫm niềm riêng nỗi đời (Rơi vào nửa đêm). Chúng ta chia sẻ, đón nhận và trân trọng những nỗi niềm ấy của Ông Văn Khôi không phải chỉ từ câu chữ mà còn từ những giá trị sống mà ông đã trải nghiệm, tích lũy và tạo dựng một cách tự nhiên, dung dị từ những trang viết cũng như từ chính cuộc đời mình.
Lời cuối
Cho đến hôm nay, đoạn kết bài viết của tôi đã là quá khứ. Người vợ tào khang của nhà thơ Ông Văn Khôi đã rời cõi tạm mới hơn một năm, bỏ lại ông với bao bề bộn. Ông Văn Khôi vẫn cứ lạc quan sống và viết với những nỗi niềm chất chứa. Nhưng lực bất tòng tâm, vào ngày đầu tiên của tháng ba năm nay, ông đã ra đi sau một cơn bệnh nặng. Khép lại cuộc đời một nhà giáo tận tụy, một nhà thơ chân thành đến giản dị, một cá tính cả trong thơ lẫn cuộc đời. Chỉ tiếc ngòi bút của ông đã dừng ở đây, để lại một dấu chấm hết trên trang giấy viết dở, để lại lòng xót thương của gia đình, bạn bè và các thế hệ học trò, những người mà ông đã từng yêu mến, trăn trở và mong mỏi đến cuối cuộc đời.
N.L.H