Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Chân dung nhà văn Nguyễn Minh Sơn
“Bên đèn phố thị thương đồi núi xa” - xin mượn câu thơ của nhà thơ Bùi Giáng để giới thiệu về văn chương của 3 nhà văn “Nông Sơn tam bút”. Đó là Nguyễn Minh Sơn (Hoa Ngõ Hạnh) sinh năm 1972, Hồ Tấn Vũ sinh năm 1978 và Nguyễn Thị Như Hiền sinh năm 1990. Ba cây bút cùng lớn lên ở làng quê bên dòng Thu Bồn thơ mộng, cùng học một trường phổ thông, cùng chia xa cố quận để mưu sinh xứ người, cùng khát vọng sống và bản lĩnh vượt qua nghịch cảnh,... Nhiều lần tôi tự hỏi: Vậy có điểm nào làm nên nét chung cho trang viết của ba tác giả miền trung du thượng nguồn xứ Quảng này? Bài viết nhỏ khởi đi từ thôi thúc tìm đáp án cho câu hỏi “cắc cớ” ấy.
1. Đất nghèo nuôi dưỡng hồn văn
Dẫu nên thơ, giàu truyền thống, nhưng công bằng mà nói, những làng quê dọc thượng nguồn sông Thu Bồn là vùng đất khó, đất khổ,“khỉ ho cò gáy”. Vị trí cách trở, tài nguyên không nhiều, đã vậy còn hạn hán, bão lụt thường xuyên. Nhưng thật lạ lùng, vùng quê ấy lại phát tích về văn nghệ. Qua miền trung du với đồi sim cằn cỗi, ta như nghe vọng tiếng thơ buồn của Khương Hữu Dụng những đêm trường côi cút nơi chân đèo Le, thấy dấu chân cô độc của Bùi Giáng bao chiều chăn dê buồn rợn, gặp nỗi lòng Tường Linh da diết từ phương Nam vượt mấy khung trời gởi về cố quận.
Đất nghèo cũng đã ươm dưỡng hồn văn chương của bao lớp hậu sinh, trong đó có ba văn nhân cùng ra đi từ ngôi trường Trung học phổ thông Nông Sơn. Năm tháng nhọc nhằn, quê hương thương khó là cảm hứng văn chương, lực đẩy để sau này khi duyên đủ, quá khứ, đắng cay hóa thành văn. Hiểm địa cỗi cằn lại là chất thử nhân tính, gội rửa, thanh lọc những ô trọc cõi người. Cái đói, cái nghèo, sự chia lìa, chết chóc song hành với nghị lực, khát vọng vươn lên day đi dứt lại trong Quán rượu cowboy, Nà Bò Cỏ Ống (Nguyễn Minh Sơn), Vùng sương phủ, hầm sâu và đảo vắng (Hồ Tấn Vũ), Mưa qua Triền Rang, Ngồi bên hiên nhìn nắng (Nguyễn Thị Như Hiền) là những chỉ dấu định hình phong cách của họ trong đời sống văn học đa sắc hôm nay. Tình đời, tình người lấp lánh sau mặt chữ, những trao gởi chân thành của người viết - chứng nhân đã đánh động trái tim người đọc.
2. Hương tình đạm bạc gợi nhớ gợi thương
Tạm xa những ngọn đồi đầy đá thổ chu bỏng rát, những cánh đồng khô cằn, cháy nắng, những ngôi nhà nằm lẻ loi bên sườn đồi heo hút, những núi truông trùng điệp, người văn “đưa chân tám hướng mà ghi vết đời” (Tường Linh). Từ trong trang viết của họ, quê nhà hiện hình qua khói sương kí ức, qua những địa danh thân thuộc mà diệu vợi, những truyền thuyết, giai thoại nửa thật nửa hư về hang thần, kì nam, loài chim chung tình, con mang báo điềm lạ, những trận mưa tái sinh, đỉnh núi cài tang trắng,… Ngẫu nhiên mà hữu ý, cả ba tác giả đều đưa vào truyện rất nhiều “đặc sản” quê nhà thông qua những lương dân chân đất, những hình ảnh, sự kiện, lời ăn tiếng nói, quan niệm dân gian đậm dấu ấn vùng miền. Tình quê như phép màu để người viết kì ảo hóa những câu chuyện, không gian quen thuộc, bình dị, khoác cho chúng những y trang huyền nhiệm qua đó phát sáng những thông điệp về tình đời, tình người. Câu chữ vì thế vừa quen vừa lạ, hiện hữu mà xa thẳm, chân chất mà ám gợi. Những chuyện đường rừng của Thế Lữ, Đức Tuấn gợi cảm giác rùng rợn, ly kì về những nơi nước độc ngàn thiêng nhưng đó vẫn là tâm ý của khách lạ qua đường. Truyện của Nguyễn Trí (Bãi vàng, đá quý, trầm hương), của Hồ Tĩnh Tâm (Trầm luân đá đỏ) dẫu là chứng nghiệm của người trong cuộc nhưng vẫn thiếu cái hồn, cái thực, cái khí chất của người trẻ tuổi, sinh ra, lớn lên, gắn chặt đời mình với lam sơn chướng khí, thấu hiểu cái quy luật nghiệt ngã “ăn của rừng rưng rưng nước mắt”, “của thiên trả địa”, cái nhỏ nhoi, vô nghĩa lí của con người trước đại ngàn chất chứa bao bí mật, bao sức mạnh ngàn đời như truyện của Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ. Nếu tản văn Nguyễn Ngọc Tư khiến độc giả khó quên bởi sự đậm đà của miền Tây sông nước thì tản văn của Nguyễn Thị Như Hiền cũng có phong vị, sắc dáng riêng về đất và người xứ Quảng chân tình, hồn hậu. Mỗi món ăn, mỗi tên đất tên làng nặng tình cố thổ như vọng vang nhắn gọi khách li hương trở về neo đậu bến quê.
Chân dung nhà văn Hồ Tấn Vũ
Không quá võ đoán khi cho rằng cả ba tác giả đều là người nghiện “mùi quê”, nghiện “xứ mình”. Mĩ cảm của quá khứ khởi đi từ nỗi nhớ tha thiết cố hương. Mùi kí ức, hương cố quận vừa gần gụi vừa xa xôi, mong manh mà dai dẳng, cụ thể mà khó gọi thành lời. Đó là mùi đất, mùi đồng, mùi của món ăn quê kiểng gợi nhớ, gợi thương, mùi hương hoa, mùi khói bếp cuối năm, cả mùi hương mê dụ của non ngàn,… được làm cho đậm vị bằng yêu thương, luyến nhớ của người con xa xứ. Dù đi cùng trời cuối đất, người kể chuyện vẫn hoài vọng đất quê. Mắt càng no, chân càng vững thì tâm càng tha thiết quay về. Con không chê cha mẹ khó, nhất là khi người mẹ ấy đã gánh gồng, che chắn và quá đỗi bao dung. Nửa hăm hở hướng tương lai, nửa độc hành về ấu thơ để gặp lại chính mình những ngày chăn trâu cắt cỏ, đói rạt đói rài mà no đủ mơ ước, khát vọng, được sống trong “thế giới biệt lập” để “thấy mình thật hạnh phúc khi được làm người lạc hậu” (Tiếng cuốc cuối cùng trong thành phố - Nguyễn Minh Sơn). Tâm trạng dùng dằng, giọng điệu hoài niệm, tiếc nhớ trong những trang viết nhiều buồn thương nhưng vắng tiếng cười là điểm chung của cả ba cây bút cùng lớn lên dưới chân núi Cà Tang.
3. Năng lượng từ trang viết thấm đượm tình quê
Văn xuôi của của Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ, Nguyễn Thị Như Hiền là ân tình đáp tạ cố hương, là tiếng nói chân thật của những người trong cuộc nên đôi lúc chất văn bị lấn lướt bởi chất sống, chất đời. Dấu ấn để lại với người đọc đó là những trang viết truyền được cái rung động vi tế về quê hương nguồn cội, trao truyền niềm tin về cuộc sống, về hành trình vượt qua nghịch cảnh cho bạn trẻ hôm nay.
Dù khác nhau về tuổi tác, hoàn cảnh sống, sở trường nhưng điều dễ nhận thấy ở cả ba tác giả là hạnh phúc của những người không bị cắt rời với cuống nhau xứ sở. Đất mẹ ân tình đã nâng đỡ, chở che bao đứa con trên những bước đường lập thân lập nghiệp ở xứ người, những tháng năm làm cánh diều lạc phố “đi bắt nỗi buồn” (Nguyễn Thị Như Hiền). Đi để về, mặt tuy xa mà lòng không cách là lựa chọn của nhiều nhân vật. Trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Như Hiền, với người già, quê hương bao giờ cũng “như chiếc dằm trong lòng”, cứ đụng vào là nghe nhức nhối (Đã thấy mùa xuân). Còn với người trẻ tuổi thừa hăm hở, khát vọng, quê nhà là khởi điểm và cũng là đích đến, bởi “chẳng có ai mà không sống được trên mảnh đất quê hương” (Nơi chốn bình yên). Bà mẹ quê luôn rộng lượng, yêu thương con mình đến tận cùng chân thật. Sau khi đã mỏi gối bôn ba, ngấm đủ những cú đánh tàn nhẫn, vô tâm của số phận, người ta lại quay về an trú giữa làng quê, và đều được chờ đón, được an ủi, được chữa lành.
Tình yêu là lăng kính biến hình kì diệu khiến đất nghèo, làng nhỏ hóa trù phú, bao la. Địa danh dẫu cụ thể (Khương Hạ, Trung Phước, Triền Rang, Tý, Sé, Nà Bò, Cỏ Ống, núi Chúa, Cà Tang, Nông Sơn, Hòn Kẽm Đá Dừng, dòng sông Thu bên bồi bên lở,…) hay tưởng tượng (làng Mênh Mông, hang Chình, bãi Ma, phiên chợ Bóng Đêm,...) đều là nơi lưu giữ những kí ức long lanh của ấu thơ tươi đẹp, là sự vấn vít, mĩ hóa mảnh đất chôn nhau của người viết. Đó là chất đề kháng, sợi dây níu giữ thiên lương con người. Cảnh vật vì thế bình dị mà đẹp đến rưng rưng. Tình cố xứ là gia vị “bỏ bùa”những quà quê hương đồng gió nội, làm đậm vị, bền hương cho tô mì Quảng, trả cá đồng kho nghệ, chén mắm thính mặn mòi,… Nguyễn Thị Như Hiền đã mượn suy nghĩ của nhiều nhân vật nữ để gởi gắm tâm tư đến đất mẹ ân tình: “Xứ này nghèo, quanh năm thiên tai nhưng chưa bao giờ Như muốn rời bỏ” (Mưa qua Triền Rang). Hơn ai hết, họ hiểu rằng:“Mình thương cánh đồng tận cùng máu thịt thì sẽ đợi được tới ngày những cơn gió mát rượi băng đồng…” (Những cơn gió băng đồng). Sự chân thực, giàu cảm xúc khi viết về nơi máu thịt của mình đã tạo được đồng cảm nơi độc giả, khơi lên ở họ xúc cảm thiêng liêng về tình quê xứ.
Chân dung nhà văn Nguyễn Thị Như Hiền
Hành trình ra đi từ làng, bản lĩnh vượt qua số phận, gìn giữ thiện lương của nhân vật cũng là năng lượng quý giá cho bạn đọc, nhất là những người trẻ tuổi. Con người trong truyện đa phần là những thanh niên lớn lên như cây hoang cỏ dại, rồi lơ ngơ mang theo tủi hờn, mặc cảm, khốn khó lên rừng, về phố thị với ý chí, quyết tâm vừa khẳng định bản ngã, vừa giữ được cốt cách “lương dân”, không tắt lụi ước mơ, hi vọng dù bị hoàn cảnh đẩy vào tình thế bế tắc, tối tăm, cùng quẫn. Với họ, nhiều lúc sống chết không quan trọng, bởi đó là quy luật của muôn đời. Khắc ghi triết-lí-làng “đói cho sạch, rách cho thơm”, người ta luôn tâm niệm “phải sống thế nào cho ra sống”, “chỉ nên sợ sự sống để sống tốt hơn” (Quán rượu cowboy - Nguyễn Minh Sơn), vì thế không buông tay, hèn nhát trong cuộc chiến làm người. Những trang văn giàu chất tự truyện phần nào phơi lộ khí chất Quảng: sống đúng chữ “vì” với tất cả san sẻ, yêu thương, không lùi bước, cúi đầu trước trước trái ngang, khổ ải. Nhờ đó, họ không ngừng bước tới, từ hầm sâu đến giảng đường, từ chốn mù sương về miền ánh sáng, từ vắng lặng rợn người đến nơi rộn rã hoan ca, từ chết chóc đến hồi sinh diệu kì. Với độc giả, chuyện trắc trở trên con đường thành công của nhân vật là bài học, là động lực không nhỏ. Điều này được Hồ Tấn Vũ nhiều lần chia sẻ trong tiểu thuyết đầu tay đậm tính chất tự truyện: “Nếu ta đi tìm tương lai ở một nơi không có tương lai chẳng khác nào đi trong hư ảo”; “Phải cay đắng một chút thì sau này không còn sợ chông chênh. Cuộc đời này ngoài may mắn thì phải hơn nhau ở sự chịu đựng”; “Xã hội đâu có khép cửa với những người biết tiến thủ”;… Lí tưởng sống, phép màu của nghị lực, của niềm tin ở con người, ở cuộc sống từ những nhân vật chưa từng bị cách li nguồn cội như “tôi” (Tìm trầm - Nguyễn Minh Sơn), Tấn (Vùng sương phủ, hầm sâu và đảo vắng - Hồ Tấn Vũ), Như (Mưa qua Triền Rang - Nguyễn Thị Như Hiền) sẽ tiếp năng lượng để bay đến chân trời mơ ước cho bạn trẻ hôm nay.
Sinh ra từ sơn cước, lớn lên từ rừng, con người hiểu rõ sự bao dung và cũng tàn nhẫn, lạnh lùng của Mẹ Thiên nhiên. Các truyện ngắn của Nguyễn Minh Sơn (Tìm trầm, Quán rượu cowboy, Những ngày lưu lạc), Nguyễn Thị Như Hiền (Mưa qua Triền Rang, Ngược gió sông Thu) và đặc biệt là tiểu thuyết của Hồ Tấn Vũ minh chứng chân thực, đầy thuyết phục về sự cần thiết trong cách sống phải đạo, vô sự của con người với tự nhiên. Hạn hán, mất mùa, đất chảy, núi lở, rắn cắn, hổ vồ,… đa phần đều là quả báo nhãn tiền cho hành động mạo phạm, tàn phá tự nhiên của con người dẫu chính họ bị đẩy vào hoàn cảnh chẳng đặng đừng: “Nếu mảng rừng xanh lưng chừng núi là ngôi nhà, mỗi ngôi mộ là chiếc giường của người chết, thì chúng ta đang phá nhà của họ còn gì?” (Vùng sương phủ, hầm sâu và đảo vắng). Gần gụi, tri ân đất mẹ, con người càng thấu hiểu những lầm lỗi và hậu quả khôn lường mà bản thân đã gây ra cho tự nhiên. Núi rừng, dòng sông, cánh đồng trong trang viết của họ vì thế hòa kết nhiều thái cực đối lập: quen thuộc - kì bí, nên thơ - tàn tạ, bình yên - cuồng nộ, mê dụ - cảnh tỉnh, bao dung - nghiệt ngã, tái sinh - hủy diệt, thoáng chốc - vĩnh cửu,… Tri ân, ngưỡng vọng, chuộc lỗi với rừng xanh núi đỏ, đôi lúc con người không che giấu mong muốn làm một phần của tự nhiên: “Phải sống thật đường hoàng như cây rừng. Con người phải dùng sự thật để soi sáng sự thật thì mới hi vọng có cuộc sống khá lên” (Những ngày lưu lạc - Nguyễn Minh Sơn).
Tha thiết tin yêu, chứa chan hi vọng ở ngày mai, ở sự đền bù cho những người hữu tâm hữu chí, nhiều sáng tác của ba tác giả trùng ngộ ở cách viết vừa truyền thống vừa hiện đại như là cái duyên, cái hồn của sự mộc mạc, chân thành. Truyện ngắn, tản văn của Nguyễn Thị Như Hiền thường có kết cục ấm áp, lan tỏa năng lượng sống tích cho bạn đọc qua hình ảnh bình dị, giàu cảm xúc: một căn nhà vắng nay đầy ắp tiếng cười; sự no đủ, đoàn viên, ấm áp đã xua tan buồn đau, ảm đạm. Như thể sợ đau nhân vật của mình, những yêu thương, tin tưởng được chị gởi cả vào cái kết đằm sâu thiên tính nữ. Khép lại truyện ngắn Tiệm của đàn bà là chi tiết: “Lòng An vui như những cánh hoa màu đỏ trên tấm rèm cửa đang bay phất phơ vì gió…”. Mưa qua Triền Rang kết thúc bằng một trận mưa đột ngột có chức năng hồi sinh cho vạn vật, ân thưởng cho những con người không phụ rẫy đất quê nghèo khó. Người đọc cũng thấy ấm áp, mát lành, thấy hi vọng, thấy có động lực đi xa để trở về qua những kết thúc có hậu này. Kết cấu lắp ghép nhiều không gian, thời gian, nhiều sự kiện, nhiều thân phận, cảnh đời trong Vùng sương phủ, hầm sâu và đảo vắng của Hồ Tấn Vũ như minh chứng về sự muôn mặt của đời sống, như ẩn dụ về lòng tin mạnh mẽ rằng “sông có khúc, người có lúc”.
Những người sinh ra từ làng, chịu ơn “những bài học nông thôn” (Nguyễn Huy Thiệp) sẽ được gặp quê cũ, gặp lại chính mình qua những trang viết này. Những chuyện đời tự kể chân thực, giàu lòng trắc ẩn dễ được đồng cảm, dễ truyền cảm hứng cho những người đang chông chênh, hoang mang, bế tắc trước ngưỡng cửa cuộc đời. Nghị lực sống, niềm tin ở tha nhân, ở xã hội, những an hạnh, bù đắp cho nỗ lực không ngừng của những người trong cuộc,… có sức vẫy gọi không hề nhỏ đối với bạn đọc, nhất là những người trẻ tuổi.
4. Và của tin trao gởi
Dẫu chưa nhiều, nhưng những thành công bước đầu rất đáng ghi nhận này cũng chính là ân tình đáp tạ cố hương của cả ba tác giả. Nếu Nguyễn Minh Sơn ghi dấu qua truyện ngắn, từ 30 năm trước đã được giải thưởng của báo Văn nghệ (năm 1995), Nguyễn Thị Như Hiền cùng với truyện ngắn, truyện dài là những tản văn đậm hương cố thổ, đạt giải Nhất cuộc thi viết “Hương vị Tết” của báo Người Lao Động năm 2023, giải Nhì Giải thưởng Văn học Kim Đồng lần thứ nhất (tháng 6/2025) thì Hồ Tấn Vũ, một nhà báo xông xáo, đang gây được tiếng vang với tiểu thuyết đầu tay khá bạo liệt, mới mẻ cả về nội dung và bút pháp. Mỗi người một vẻ, nhưng vẫn nhiều điểm chung kiểu “tam văn nhất vị”, đều mang chở ân tình, tin yêu, độ lượng của làng quê làm hành trang đi tới. Hành trình viết cũng là hành trình tìm kiếm “thiện tâm”, phơi lộ những hạt vàng lấm lánh trong tâm hồn, nhân cách của bản thân và của tha nhân trong cuộc chiến giành giữ thiện lương để được sống, được làm người tử tế. Cuộc chiến ấy, nói như Nguyễn Minh Sơn, còn “khó kiếm hơn cả trầm” (Tìm trầm). Đó là những yếu tính để ta tin rằng ba cây bút miền sớn cước này sẽ còn đi dài với văn chương.
Hi vọng chính là điều mà “Nông Sơn tam bút” nhen lên trong người đọc. Ba gương mặt văn nhân sẽ làm nên chỉ dấu văn chương của Xứ Nguồn, để bạn bè lưu giữ ấn tượng về một vùng văn trung du đất Quảng, để ước mơ, khát vọng bay lên từ khô cằn sỏi đá. Đọc văn, bên tai ta như văng vẳng câu ca dao thắm tình xứ Quảng: “Ai về nhắn với bạn nguồn/ Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên”, ta có thêm hạnh phúc, có thêm niềm tin trong cuộc đời để an nhiên sống có trước có sau, không vô tâm, quên lãng với ân tình xứ sở, với nợ duyên cõi người.
B.T.T