“Cờ Việt Nam oanh liệt gió mừng bay!”
Lá cờ đỏ sao vàng khổ lớn xuất hiện trong cuộc mít tinh tại Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội ngày 19/8/1945. Ảnh: tư liệu
80 năm trước, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là sự kiện lịch sử “long trời lở đất” ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, mà thành quả vĩ đại nhất là sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sức hấp dẫn lạ thường của cuộc Cách mạng mùa Thu ấy đã truyền cảm hứng mãnh liệt cho nhà thơ - nhà báo Xuân Diệu làm nên trường ca Ngọn quốc kỳ giàu chất tráng ca, lay động lòng người.
Trường ca Ngọn quốc kỳ được Xuân Diệu viết bằng phong cách thơ sử thi quần chúng tại thành Hoàng Diệu (tên gọi của thủ đô Hà Nội lúc bấy giờ) trong bối cảnh cả dân tộc ta vừa “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” và đang bừng bừng khí thế quyết tâm chống thù trong, giặc ngoài, bảo vệ nền độc lập non trẻ vừa mới giành được ngay sau Cách mạng Tháng Tám: “Việt Nam! Việt Nam! cờ đỏ sao vàng!/ Những ngực nén hít thở Ngày Độc lập!/ Nguồn lực mới bốn phương lên tới tấp!/ Nếp cờ bay chen vỗ sóng bài ca.../”.
Nếu nhà thơ Tố Hữu biểu đạt niềm vui bất tuyệt của đất nước, sông núi và lòng người trước thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng mùa Thu bằng những vần thơ sục sôi: “Gió gió ơi! Hãy làm giông làm tố/ Cuốn tung lên cờ đỏ máu thơm tươi/ Vàng vàng bay, đẹp quá, sao sao ơi!/ Ta vật ngã trong dòng người cuộn thác” (Huế tháng Tám) thì trường ca Ngọn quốc kỳ cũng không ít những câu thơ hào sảng: “Gió reo, gió reo, gió Việt Nam reo;/ Mây bay, mây bay, mây hồng tươi sáng./ Gió ca trên non, gió ngợi trên đèo;/ Gió hát trên đồng: máu đỏ cao treo./Gió bay đi, mà nhạc cũng bay theo,/ Đưa tin mới khắp trên trời nước Việt./ Hoa cỏ đón, mà núi sông cũng biết,/ Cờ Việt Nam oanh liệt gió mừng bay!/ Vàng huy hoàng sinh giữa thắm hây hây./ Thắm lộng lẫy nở quanh vàng rực rỡ:/ Tất cả vải là một cười thắm đỏ!/ Tất cả cờ là một tiệc triêu dương!”. Không vui, không sướng sao được khi chứng kiến một dân tộc đang hồi sinh, vươn vai Phù Đổng, bỏ lại đằng sau một quá khứ đau thương, tủi nhục vong quốc suốt tám mươi năm trời: “Thắm lại hết! - Nào những màu bạc lái,/ Những bùn tro, những than tựa đêm tăm/ Vàng lại rồi! Nước cũ bốn nghìn năm/ Theo cờ mới, trẻ như hai mươi tuổi”. Với tâm thế đó, tác giả tái hiện thật sinh động “ngày hội của quần chúng”, cảnh muôn triệu con dân đất Việt, già cũng như trẻ, gái cũng như trai đều hân hoan chào đón biểu tượng của Cách mạng - Tổ quốc - Dân tộc: “Việt Nam! Việt Nam! cờ đỏ sao vàng!/ Những ngực nén hít thở Ngày Độc Lập!/ Nguồn lực mới bốn phương lên tới tấp!/ Nếp cờ bay chen vỗ sóng bài ca...”, “...Ôi lịch sử! cùng mấy ngày tháng Tám,/ Khắp Việt Nam cờ mọc với lòng dân./ Nên đâu đâu, trong ngõ hẻm, đường gần,/ Khắp kẻ chợ đến làng quê cũng vậy:/ Chị bán củi ra thị thành đón lấy;/ Anh kéo xe làm giấy dán trên mui;/ Em bé con hì hục cố pha mùi;/ Ông lão đón mớ lửa hồng vào dạ./ Có mấy bữa mà Việt Nam thắm cả:/ Máu nén lâu từ ấy đã bùng ra./ Những cửa lều xơ xác cũng ra hoa./ Trên gốc cũ nảy một chồi sống mới./ Cả anh dũng đã tưng bừng trở lại,/ Một trăm năm tan nát tựa mù sương!”. Những câu thơ tinh tế đầy sức rung!.
Thẻ nhà báo của Xuân Diệu do ông Nguyễn Đình Thi - Chủ nhiệm báo Tiên phong - cơ quan vận động văn hóa mới thuộc Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam cấp năm 1945.
Bằng lý trí và tình cảm cách mạng, Xuân Diệu khẳng định một sự thật lịch sử: Không phải lá cờ nào khác mà chính cờ đỏ sao vàng - lá cờ sinh ra trong máu lửa khởi nghĩa Nam Kỳ, lá cờ mà lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh hằng ấp ủ trong những đêm trắng tại lao tù của Tưởng Giới Thạch - đã hiệu triệu quần chúng làm nên cuộc cách mạng lịch sử: “Ai làm du kích vượt đèo cao?/ Ai khiến thanh niên lần bước đá?/ Ai xui dân gánh việc anh hùng?/ Bổn phận nghìn năm, ai giục giã?/ Ai lên tiếng gọi? - Ấy sao vàng!/ Ấy Việt Nam - Hồn như lửa hạ!/ Vì bởi yêu cờ mới tới đây./ Xông pha sương gió, gội mưa đầy./ Áo trăm lần ướt rồi khô lại,/ Thân hết chui rừng lại lách mây./ Mấy lần nhọc mệt lòng toan nản./ Trông thấy sao vàng, tay vuốt trán,/ Chân quên đá nhọn, gối quên chồn,/ Bước lại so đều chưa thấy chán!/ Những phen tin tưởng muốn lung lay,/ Sao gọi trên cờ phất phới bay./ Mật đắng nếm ngon như nhắm tốt./ Cổ khô còn hát được bài hay”. Tác giả Ngọn quốc kỳ cũng không quên nhắc độc giả: để có được địa vị tôn quý, cờ đỏ sao vàng phải trải qua bao phong ba, bão táp: “- Cờ tôn quý! ảnh giang sơn cẩm tú!/ Biết bao phen phải xếp dưới hòm rương!/ Biết bao khi khủng bố rảo trên đường,/ Phải giấu kỹ, để yêu thương đáy dạ!/ Mỗi câu nói là một lần xông xả:/Lúc cờ bay,/là mỗi lúc liều thân!”. Càng tự hào và tôn vinh quốc kỳ và đội quân cách mạng bao nhiêu, giọng thơ trong Ngọn quốc kỳ lại càng đanh thép bấy nhiêu khi lên án, phỉ nhổ cờ của bọn phản động Việt Quốc, Việt Cách đang ngày đêm ôm chân quân Tưởng, điên cuồng chống phá Cách mạng: “Xanh đỏ ấy ra thẹn thùng với gió,/ Tủi cùng sương, không đáng với non sông,/ Hổ cùng cây, chưa dám mọc trên đồng;/ Trên mấy nóc hãy lấp la, lấp ló./ Nghe tiếng súng đã giật mình hoảng sợ/ Xem buồn thiu, tan hết chí hiên ngang/ Bay ngẩn ngơ, lơ láo tựa cờ hàng!/ Bọn Chiêu Thống, một bọn Trần Ích Tắc,/ Tạo ra chúng, cũng đủ màu, đủ sắc,/ Cũng tốn kim, tốn chỉ, cũng công trình, Cũng lá cờ!
- Nhưng thiếu chút uy linh./ Thiếu lịch sử. Chung quy là: miếng vải!/ Ôi nhục nhã! Cảnh sắn bìm ỷ lại!”.
Trường ca Ngọn quốc kỳ khép lại bằng lời kêu gọi toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ chung quanh Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu: “Hỡi dân Việt! Cờ của ta vẫy đó,/ Tiến lên! tiến lên! theo sứ mạng non sông!/ Cờ là ta, là dân chúng, cờ mọc tựa vừng đông,/ Sống hay chết, chẳng nhục dòng giống Việt!/ Dân là nước, nước là ta, đã quyết!/ Kìa sao vàng máu đỏ đã cao reo!/... Cờ là đó. Việt Nam này vẫn đó;/ Hồ Chí Minh, muôn thuở Tiến quân ca./ Sáng muôn năm, nền Dân chủ Cộng hòa”.
Nói về sự ra đời của trường ca Ngọn quốc kỳ, nhà thơ - nhà báo Xuân Diệu kể: Khoảng tháng 10-11.1945, ở tuổi 29, ông đang hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam (do ông Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi phụ trách chính). Lúc bấy giờ, Nam Bộ thân yêu “máu của máu Việt Nam, thịt của thịt Việt Nam” đang đi đầu và anh dũng kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ở Hà Nội, cuộc đấu tranh chống những lực lượng chính trị phản động cũng diễn ra gay gắt. Núp bóng quân đội Tưởng Giới Thạch, những đảng phái phản động trưng những lá cờ sao trắng, cờ ba gạch và không công nhận cương vị quốc kỳ của cờ đỏ sao vàng, nghĩa là không công nhận chính quyền nhân dân do Đảng Cộng sản xây dựng và lãnh đạo. Hàng ngày, chúng tuyên truyền những luận điểm chống Chính phủ lâm thời, tiến hành việc bắt cóc người, khiêu khích, phá rối và bày trò biểu tình chống cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên (6/1/1946). Trong bối cảnh như vậy, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã “đặt hàng” cho nhà thơ - nhà báo Xuân Diệu: Dùng thơ phất cao ngọn quốc kỳ, đánh mạnh vào bọn phản động hại dân, hại nước. Và, ông đã chọn đề tài “Ngọn quốc kỳ” để sáng tác trong mấy tháng. Đây là tác phẩm thơ mà Xuân Diệu viết dài ngày nhất trong đời thơ của mình!
V.T