Mẹ lạy về phía đảo (Đọc bài thơ Tia sáng của nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm)

06.08.2025
Tuệ Mỹ

Mẹ lạy về phía đảo (Đọc bài thơ Tia sáng của nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm)

TIA SÁNG

Thắp nén nhang mẹ lạy biển

Biển dội lên sóng trắng ngang đầu

Thắp nén nhang mẹ lạy gió

Gió nấc vào đêm sâu.

 

Thắp nén nhang mẹ lạy về phía đảo

Tia sáng từ chân trời

Sáng quắc Gạc Ma

Tia sáng từ chân trời

Lấp lánh Hoàng Sa.

    (Rút từ tập thơ Tiếng chim xanh biếc của nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm, Nxb Hội Nhà văn, 2023)

Lời bình: Bài thơ “Tia sáng” của Nguyễn Nho Khiêm khiến bạn đọc hình dung đến một cảnh tượng hết sức trang nghiêm và thiêng liêng của cuộc khấn nguyện trước biển. Đặc biệt người thực hiện cuộc khấn nguyện này lại là người mẹ. Vậy, người đã khuất hẳn là người con mà nơi anh ngã xuống là biển cả. Đúng vậy, đó là người lính trẻ đã hy sinh ở đảo Gạc Ma trong trận chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh hải của ta năm 1988.

Bài thơ gồm hai khổ, khổ thơ nào cũng bắt đầu bằng cụm từ “Thắp nén nhang mẹ lạy”. Không có hương án, chỉ “nén nhang” thôi vậy mà cả thế giới tâm linh như hiển hiện. Khi mẹ lạy biển thì “Biển dội lên sóng trắng ngang đầu”. Biển trở nên dữ dội cuồng phong trước cái lạy của mẹ. Phải chăng cái lạy này của mẹ đã tái hiện một hiện thực nhức nhối, 64 chiến sĩ trên đảo Gạc Ma đã hy sinh xương máu của mình để bảo vệ vùng biển trời Tổ quốc. Sự ra đi của người lính đã để lại bao đau thương cho người ở lại. Hình ảnh “sóng trắng ngang đầu” mở ra cho ban đọc nhiều liên tưởng.  Phải chăng đó là vòng tròn trắng được tạo ra bằng sinh mệnh của 64 chiến sĩ quyết bảo vệ cờ Tổ quốc trước sự tấn công của tàu giặc? Và có phải đó là những vành tang trắng quấn ngang đầu người ở lại khi chồng, con của họ đã xả thân? Dù hiểu thế nào thì thi ảnh này cũng bọc lấy niềm cảm phục xen niềm uất hận lẫn thương đau của người thơ.

Người lính biển ngủ yên trong vòng tay Mẹ thì người ở lại cũng nghi ngút buồn đau. Đau thương này, Nguyễn Nho Khiêm cũng đã để cho “gió” thay lời:

Thắp nén nhang mẹ lạy gió

Gió nấc vào đêm sâu.

Liên tưởng từ “tiếng gió” đến “tiếng nấc”, Nguyễn Nho Khiêm tạo nên hình ảnh thơ “Gió nấc vào đêm sâu”. Hình ảnh thơ này đã dẫn dắt bạn đọc tiến xa trong liên tưởng đến nỗi đau mất con luôn rỉ máu trong lòng người mẹ.  Tiếng “nấc” nghẹn ngào, mẹ âm thầm thả vào “đêm sâu” nhờ “gió” mang đi đến vô tận. “Đêm sâu” phải chăng là không gian lòng mẹ, một không gian chất chứa nỗi đau chất ngất, thẳm sâu. 

Vậy đấy, có chiến tranh là có đau thương, mất mát. Đây chính là lý do mẹ “lạy biển” rồi “lạy gió”. Hai cái “lạy” này cho hai đối tượng khác nhau nhưng suy cho cùng thì ý nghĩa cũng chỉ là một. Tức là mẹ van lạy cho đất nước mẹ bình yên, không còn chiến tranh nữa. Bởi một khi chiến tranh nổ ra thì đau thương mất mát ngập tràn. Một khi “biển dậy sóng” dữ dội thì “gió nấc” cũng không ngừng. Người ra trận mất đi tính mạng còn người ở lại thì tan nát cõi lòng vì mất con, mất người thân yêu, vết thương lòng luôn rỉ máu.

Trong nỗi đau chung đó, người mẹ trong bài thơ này còn có một niềm riêng. Đó là niềm tự hào về đứa con của mẹ đã cống hiến máu xương cho Tổ quốc. Nên đau thương mà vẫn ánh lên niềm kiêu hãnh. Mẹ vẫn tiếp tục lạy. Nhưng cái lạy lần này không giống trước:

Thắp nén nhang mẹ lạy về phía đảo

Lạy về phía đảo Gạc Ma, chính đây là nơi con của mẹ đã hy sinh. Mẹ thấy gì từ nơi đây?

Tia sáng từ chân trời

Sáng quắc Gạc Ma

Tia sáng từ chân trời

 Lấp lánh Hoàng Sa”.

Nói “tia sáng”, cứ ngỡ là ánh sáng yếu ớt, nhỏ bé nhưng không, “tia sáng từ chân trời” lại “sáng quắc”. Là ánh mắt của người lính biển “sáng quắc”? Là lưỡi lê của anh “sáng quắc”? Hay đó là lòng yêu nước luôn “sáng quắc”? Là tất cả. Tất cả đã tạo nên một thứ vũ khí đặc biệt để người lính quyết chiến đấu với kẻ địch đến hơi thở cuối cùng bảo vệ chủ quyền lãnh hải của ta ở Gạc Ma. Bằng tất cả yêu thương và tự hào vô hạn, Nguyễn Nho Khiêm gọi tên tinh thần chiến đấu của người lính biển là “sáng quắc Gạc Ma”. Phải, Gạc Ma “sáng quắc” ý chí chiến đấu và lòng dũng cảm của người lính biển. Cái “sáng quắc” Gạc Ma đã tạo nên ánh xạ đẹp “Lấp lánh Hoàng Sa”. Gạc Ma nêu cao tinh thần chiến đấu quả cảm của người lính biển ở Trường Sa nhưng lại làm “lấp lánh Hoàng Sa”. Đây có thể xem là lời tuyên bố bảo vệ toàn bộ biển đảo Việt Nam mà trận Gạc Ma là điển hình. Đảo nào của Việt Nam có nguy cơ bị thôn tính thì ở đó có sự bảo vệ với tinh thần và ý chí “sáng quắc” của con người Việt Nam. Từ “sáng quắc” đến “lấp lánh”, từ trước đến sau cũng chỉ có “sáng” mà thôi. Đây phải chăng là lời khẳng định: nơi đâu có sự quên mình vì Tổ quốc thì nơi đó “phát sáng”. Ánh sáng của lòng yêu nước là một thứ ánh sáng đẹp luôn “lấp lánh” lung linh. Tác giả rất có lý khi gọi Gạc Ma là “tia sáng từ chân trời”. Vâng, chỉ là “tia sáng” vậy thôi nhưng Gạc Ma mãi “sáng quắc” và “lấp lánh” trong lòng người dân Việt cái ý chí kiên cường, cái quyết tâm cao độ của người lính biển quyết sống mái với kẻ thù. “Mẹ lạy về phía đảo” là lạy những anh linh chiến sĩ trong đó có con mình với tất cả nhớ thương, đau đớn xen niềm tự hào.

Xuyên suốt bài thơ không có một từ nói lên nỗi đau lòng mẹ mà chỉ thấy bật lên “tia sáng” phía chân trời. Câu thơ “Tia sáng từ chân trời” hai lần được nhắc lại như muốn nói rằng đau thương đầy ắp nhưng niềm tự hào về đứa con - chiến sĩ mới là thứ ánh sáng luôn “lấp lánh” trong lòng mẹ. Ánh sáng này đã bù đắp nỗi đau của mẹ. Ngòi bút Nguyễn Nho Khiêm quả là tinh tế trong thể hiện nỗi lòng người mẹ có con hy sinh vì nghĩa lớn.

Tưởng nhớ, tri ân những chiến sĩ cách mạng đã có Tổ quốc ghi công, nhân dân tưởng niệm nhưng Nguyễn Nho Khiêm không đưa vào thơ mình những hình ảnh về nghi lễ lớn này mà chỉ đưa hình ảnh người mẹ lặng thầm tưởng nhớ con mình bằng nén nhang thôi. Cũng không phải đến ngày, đến dịp mới tưởng nhớ mà ngày ngày mẹ vọng biển “thắp nén nhang về phía đảo”, nơi con của mẹ đã ngã xuống vì biển đảo quê hương. Từ đây ta có thể thấy rằng ngòi bút của Nguyễn Nho Khiêm viết về đề tài biển đảo, chạm đến chủ đề tưởng nhớ, tri ân người chiến sĩ biển đảo nhưng lại lấy hình ảnh người mẹ lạy biển, lạy gió, lạy đảo xa làm hình ảnh trung tâm cho bài thơ. Đặt hình ảnh người mẹ vào vị trí trung tâm bài thơ hẳn nhà thơ muốn làm rõ thêm cái sự thật: một khi chiến tranh nổ ra thì ai cũng phải gánh chịu đau thương mất mát nhưng người gánh chịu nhiều nhất vẫn là người mẹ. Mất con chẳng phải là nỗi đau xé lòng? Hình ảnh người mẹ này đã cất lên tiếng nói: mất mát do chiến tranh mang lại là mất mát nhân đôi và cống hiến cho Tổ quốc cũng là cống hiến nhân đôi. Bởi thế, lòng tri ân đâu chỉ dành cho người đã ngã xuống mà còn dành cho những người mẹ đã sinh ra người con anh hùng để cống hiến cho Tổ quốc.

Nén nhang mẹ lạy về phía đảo cứ thường trực thắp lên trong lòng mẹ. Nghi ngút khói buồn đau, khói nhớ thương nhưng từ trong khói hương nghi ngút đó, ta bắt gặp ánh sáng của niềm tự hào về con của mẹ đã hy sinh vì lý tưởng cao cả. Hình ảnh người mẹ trong bài thơ là điển hình cho bao bà mẹ Việt Nam có con hy sinh vì đất nước. Bài thơ này cũng là nén tâm nhang Nguyễn Nho Khiêm thắp vọng biển, vọng về anh linh những người lính biển đã bỏ mình cho biển đảo quê hương và vọng về nỗi đau của các bà mẹ Việt Nam anh hùng.

Không ồn ào, không vang động, giọng điệu bài thơ trang trọng, nhẹ trầm rất phù hợp với không gian tưởng nhớ. Mạch cảm xúc cảm khái xen lẫn tự hào chảy xuyên suốt qua hai khổ thơ đọng lại trên từng con chữ gieo vào lòng bạn đọc một cảm xúc sâu lắng, mênh mang về đất nước trong bão giông, về sự hy sinh của người lính, về mất mát đau thương do chiến tranh mang lại, về trái tim người mẹ… Cảm xúc thì chảy từ trái tim yêu thương nhưng điều mà Nguyễn Nho Khiêm muốn nhắn nhủ bạn đọc là về một “trái tim biết nghĩ”… Nghĩ gì về cuộc sống mà mình được hưởng hôm nay phải đánh đổi bằng máu và đau thương của dân tộc? Nghĩ gì về trách nhiệm của mình đối với đất nước, quê hương hiện nay?.

T.M