Khi gió đông thổi
BBT: Grazia Deledda (1871 - 1936), là nhà văn, nhà thơ nữ người Ý được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao Giải thưởng Nobel Văn học năm 1926: “Vì những trang viết đầy cảm hứng lý tưởng, miêu tả chân thật sống động cuộc sống trên hòn đảo quê hương của bà, với sự hiểu biết và cảm thông sâu sắc về các vấn đề của con người nói chung”. Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu một truyện ngắn của bà: Khi gió đông thổi (nguyên tác tiếng Ý: Mentre soffia il levanter), do dịch giả Bùi Xuân chuyển ngữ từ bản tiếng Anh (While the East Wind Blows) của Anders Hallengren đã được xuất bản trên https://www.nobelprize.org. Tạp chí Non Nước
***
Theo truyền thuyết xa xưa của người Sardinia, thân thể của những người sinh ra vào đêm Giáng sinh sẽ không tan thành tro bụi mà tồn tại cho đến ngày tận thế.
Còn bây giờ, đây là chủ đề của cuộc trò chuyện tự nhiên trong nhà của lão nông dân giàu có Diddinu Frau, được gọi là Zio Diddinu, tức chú Diddinu. Predu Tasca, vị hôn phu của con gái ông phản đối:
“Nhưng với mục đích gì? Thân thể của chúng ta phỏng có ích gì khi chúng ta chết”.
“Chà” lão nông dân trả lời: “Không bị biến thành tro bụi chẳng phải là một ân sủng thiêng liêng hay sao? Và đến ngày phán xét tất cả, chẳng phải thật tuyệt vời hay sao, khi chúng ta nhìn thấy thân thể một con người còn nguyên vẹn?”.
“Ôi dào, nó thật tuyệt đến thế cơ?” Predu trả lời, nom rất hoài nghi.
“Nghe đây, con rể” lão nông dân nói lớn: “Chủ đề này hay lắm. Tối nay, chúng ta hát về nó”.
Chúng ta nên biết, Zio Diddinu là một nhà thơ ứng tác, giống như cha và ông nội của lão xưa kia. Lão vui mừng chộp lấy mọi cơ hội có thể để thi thoảng tổ chức một cuộc thi hát, đặc biệt, bất cứ lúc nào, khi xung quanh lão chỉ là những nhà thơ kém tài.
“Ồ” Maria Franzisca nhận xét, cô cố tỏ ra duyên dáng nhất có thể, vì người tình của cô đang nhìn cô, “cuộc tranh luận có phần ảm đạm”.
“Câm miệng! Mi có thể đi ngủ!” người cha hét vào mặt cô con gái một cách thô lỗ.
Mặc dù là nhà thơ, lão Diddinu vẫn là một người đàn ông hoang dã và thô bạo. Lão khắt khe với mọi người trong nhà, đặc biệt là với cô con gái của mình. Cả nhà vừa trọng lại vừa sợ lão. Trước mặt cha mình, Maria Franzisca không dám ngồi gần Predu yêu dấu của cô. Theo phong tục, đối với các cặp đôi đã đính hôn, cô giữ khoảng cách với vị hôn phu của mình, cô chỉ có quyền quyến rũ, cuốn hút anh bằng thân thể mềm mại, uyển chuyển, đáng yêu của cô, được che đậy trong chiếc áo vest màu đỏ tươi thêu hoa, chiếc váy màu xanh ngọc lam có nhiều đốm sáng, và với đôi mắt hình hạt hạnh nhân của cô.
Thế đấy, đó là đêm Giáng sinh - bầu trời xám xịt, âm u nhưng dịu nhẹ vì có ngọn gió đông thổi vào, mang theo hơi nóng đã tàn lụi của những sa mạc xa xôi và mùi ẩm ướt của biển cả.
Dường như, đâu đó giữa những ngọn núi, sườn núi xanh mướt màu cỏ lạnh của mùa đông, hay trong những thung lũng nơi những cây ngân hạnh rung rinh nở sớm, tung bay trong gió những cánh hoa tuyết trắng xóa như để tránh rét hại, có một ngọn lửa lớn đang bùng cháy, ngọn lửa không thể nhìn thấy, nhưng đó là nguồn nhiệt. Và những đám mây không ngừng đùn lên từ đỉnh núi và bao phủ bầu trời, như là làn khói của ngọn lửa vô hình đó.
Chuông lễ ngân vang khắp làng quê; mọi người cúi chào ngọn gió đông kỳ lạ, đường phố và nhà cửa đông đúc, và tụ tập để chào mừng sự ra đời của Chúa Kitô. Các gia đình trao đổi quà tặng cho nhau: lợn quay nguyên con, thịt cừu mùa thu, thịt, đồ ngọt, bánh ngọt và trái cây sấy khô. Những người chăn cừu mang những thùng sữa bê đầu tiên cho chủ của họ, và các bà nội trợ trả lại cho họ những thùng chứa đầy rau tươi hoặc các thứ khác, sau khi đã vệ sinh sạch sẽ, cẩn thận để không ảnh hưởng đến gia súc.
Predu Tasca, là một người chăn nuôi lợn, nên anh đã thịt một con lợn nhỏ tốt nhất của mình, lấy máu của nó bôi lên nó, rồi nhét đầy những bó hoa cúc dại và gửi nó như một món quà cho vị hôn thê của mình. Và vị hôn thê của anh đã trả lại chiếc giỏ với một chiếc bánh mật ong và hạnh nhân, đồng thời gửi một đồng xu cho người phụ nữ mang quà.
Đến tối, Predu đến nhà Frau và nắm tay cô gái trẻ. Cô đỏ mặt, rạng rỡ vì sung sướng và rụt rè rút tay mình ra khỏi tay anh; nhưng trong lòng bàn tay của cô lại nóng bừng vì cái siết chặt tình ái, cô tìm thấy một đồng tiền vàng được giấu kín. Trong những khoảnh khắc tiếp theo, cô đi dạo quanh nhà, kín đáo khoe món quà xinh đẹp của Predu đã tặng cho cô.
Ngoài trời, những chiếc chuông ngân nga vui vẻ, và ngọn gió đông của Địa Trung Hải đã mang những âm thanh kim loại ấy đi khắp nơi trong cái ẩm ướt ấm áp của hoàng hôn.
Predu mặc bộ quốc phục lộng lẫy có nguồn gốc từ thời Trung cổ, một chiếc áo vest nhung màu xanh và áo khoác len ngắn màu đen được thêu tinh xảo, một chiếc thắt lưng bằng da được trang trí công phu và những chiếc cúc áo bằng vàng. Mái tóc đen dài che tai của anh được chải cẩn thận và bôi dầu ô liu; và vì đã uống chút rượu và nước hoa hồi, nên đôi mắt đen của anh sáng lên, đôi môi đỏ bừng trong bộ râu đen. Anh trông thật khỏe mạnh và điển trai như một vị thần ở miền quê.
“Chào buổi tối” anh nói và ngồi xuống gần bố vợ bên lò sưởi, nơi một khúc gỗ nhựa ruồi đang cháy. “Xin Chúa ban cho bố một trăm cái Giáng sinh! Bố có khỏe không?”.
“Giống như một con kền kền già bị mất móng” lão nông dân già, hoang dã trả lời. Rồi lão đọc một câu thơ nổi tiếng:
S'omine cando est bezzu no est bonu…
(Khi một người đàn ông già đi, anh ta trở nên vô tích sự).
Bằng cách này, họ đã đi vào truyền thuyết về những người sinh ra vào đêm Giáng sinh.
“Chúng ta hãy đi lễ” Zio Diddinu nói. “Lúc trở về, chúng ta sẽ thưởng thức một bữa tối ngon lành, và sau đó chúng ta sẽ hát!”.
“Chúng ta cũng có thể hát trước, nếu bố muốn”.
“Không phải bây giờ con rể!” Zio Diddinu trả lời, vừa dùng đầu gậy đập khẻ vào những phiến đá của lò sưởi. “Chừng nào Đêm Thánh còn dài, nó phải được tôn trọng. Đức Mẹ đẻ đau. Chúng ta không thể ăn thịt, không thể hát. Ôi, chào buổi tối Mattia Portorou! Xin hãy ngồi xuống và cho chúng tôi biết ai khác sẽ đến nào. Maria Franzisca, rót đi! Lấy ít nước cho những con cừu con này”.
Cô gái trẻ phục vụ cho vị hôn phu của mình; và khi cô cúi xuống để đưa cho anh chiếc ly lấp lánh như một viên hồng ngọc, anh say như điếu đổ nụ cười và vẻ ngoài duyên dáng của cô. Trong lúc đó, người mới tới kể về những người bạn sắp đến.
Đám phụ nữ bận rộn chuẩn bị bữa tối bên lò sưởi ở giữa bếp. Ở một bên của bốn phiến đá bao quanh lò sưởi nằm giữa sàn, những người đàn ông đang ngồi, phía bên kia, những người phụ nữ đang nấu nướng. Nửa con lợn mà Predu gửi làm quà được nướng trên những cái xiên dài, mùi thức ăn dễ chịu tràn ngập căn bếp.
Hai người họ hàng lớn tuổi đi đến, họ là hai anh em, chưa ai lập gia đình, vì không muốn chia tài sản thừa kế. Họ trông giống như hai vị tổ sư với mái tóc dài cuộn tròn trên bộ râu trắng lớn.
Sau đó, một thanh niên mù xuất hiện, anh ta mò mẫm quanh những bức tường đá, theo nhịp của cây trúc đào mảnh khảnh.
Một trong hai người họ hàng lớn tuổi đã vòng tay qua eo Maria Franziska, đẩy cô về phía vị hôn phu của cô và nói: “Có chuyện gì với các bạn vậy, những chú cừu non bé nhỏ thân yêu của tôi? Sao các bạn đứng cách xa nhau như những vì sao trên trời thế nhỉ? Hãy nắm lấy tay nhau, ôm lấy nhau đi nào...”.
Hai người trẻ tuổi nhìn nhau, khát khao cháy bỏng; nhưng Zio Diddinu cất giọng như sấm rền:
“Lão cừu đực! Hãy để chúng yên nào! Chúng không cần lời khuyên của bác đâu”.
“Tôi biết, và chúng cũng chẳng cần chú đâu! Chúng sẽ tìm đủ cách để trở thành chủ nhân của chính chúng đấy”.
“Nếu điều đó xảy ra” lão nông dân nói: “Tôi sẽ đuổi thẳng chàng trai đó đi như đàn ong bắp cày. Rót đầy đi, Maria Franzisca!”.
Cô gái trẻ thoát khỏi vòng tay của ông già, cô cảm thấy hơi bị xúc phạm.
Mỉm cười và chỉnh lại chiếc mũ len của mình, Predu nói: “Chà, như vậy chúng ta có thể không ăn, không ca hát hay làm bất cứ điều gì khác... ngoài uống rượu ư?”.
“Anh có thể làm bất cứ điều gì anh muốn, bởi vì Chúa rất vĩ đại” người thanh niên mù, ngồi cạnh chàng rể, thì thầm: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm!”.
Và thế là họ uống - và say sưa hết biết!
Một mình Predu hầu như không chạm môi vào mép ly.
Bên ngoài tiếng chuông ngân vang. Những bài hát và tiếng kêu vui vẻ được gió mang đi. Đến mười một giờ, tất cả đều thức dậy để tham dự thánh lễ lúc nửa đêm. Trong nhà chỉ có một bà cụ ở lại, người mà khi còn trẻ đã biết rằng, vào đêm Giáng sinh, những người chết sẽ trở về thăm nhà của bà con họ hàng. Vì lý do này, bà cụ đã thực hiện một nghi thức cổ xưa: bày một đĩa thức ăn và một bình rượu bằng đất sét cho người chết. Và phong tục đó, bà cũng làm vào dịp Giáng sinh này. Khi chỉ còn một mình, bà đứng dậy mang rượu và thức ăn đặt lên chiếc cầu thang ở ngoài sân, nó được bắc từ chiếc sân lên các phòng trên lầu.
Một người hàng xóm nghèo, đã quen với cách làm của bà cụ, liền trèo qua tường rào của ngôi nhà, ăn sạch đĩa thức ăn và uống cạn bình rượu.
Ngay sau khi tất cả trở về từ buổi lễ, già trẻ vui vẻ tụ tập ăn tối. Những bao len lớn được đặt trên sàn và phủ khăn trải bàn bằng vải lanh tự dệt.
Trong những chiếc bình lớn bằng đất sét màu vàng và đỏ, món mì ống của đám phụ nữ đang bốc khói, và trên một chiếc thớt gỗ, Predu đã thái thịt con lợn quay một cách thành thạo. Tất cả mọi người đều ngồi trên sàn nhà, trên chiếu và bao len. Một ngọn lửa lớn nổ lách tách phía trên lò sưởi, hắt ánh sáng đỏ rực vào mặt những vị khách. Khung cảnh giống như thời của Homer. Và họ đã say khướt như thế nào!
Sau bữa tối, những người phụ nữ phải rút lui, đó là yêu cầu khắt khe của chủ nhân. Những người đàn ông ngồi hoặc nằm quanh lò sưởi và họ bắt đầu hát. Tất cả các khuôn mặt đều đỏ bừng, và đôi mắt của họ uể oải nhưng trong sáng. Lão nông dân bắt đầu cuộc thi:
Duncas, gheneru meu, ello ite naras,
Chi a sett'unzas de terra puzzinosa…
“Này, con rể” lão nông dân già hát: “Hãy nói cho ta biết điều gì là tốt nhất, bị giảm xuống còn bảy lạng đất hôi thối… hay tìm thấy thân thể của chúng ta nguyên vẹn trở lại vào ngày phán xét cuối cùng?”.
Predu chỉnh lại mũ và trả lời.
“Chủ đề này nghiêm túc quá” anh hát: “Chúng ta hãy nghĩ về những điều khác và hát những bài hát ngợi ca tình yêu, tán dương lạc thú, và “sas Venus hermosas” (những người đẹp giống thần Vệ nữ) trong bài hát, cùng các thứ duyên dáng và thú vị khác”.
Tất cả mọi người, trừ lão nông dân, đều tán thưởng khổ thơ ngoại giáo này. Nhà thơ già tức giận và trả lời bằng thơ rằng đối thủ của ông không muốn trả lời vì anh ta cảm thấy không đủ khả năng đối phó với những chủ đề cao nhất.
Sau đó, Predu một lần nữa chỉnh lại chiếc mũ của mình và trả lời, luôn luôn bằng câu thơ tiếng Sardinia:
“Chà, vì bố thực sự muốn thế, nên con sẽ trả lời bố. Cuộc tranh luận không hấp dẫn con vì nó buồn bố ạ; con không muốn nghĩ đến cái chết trong đêm vui vẻ và sống động này. Nhưng vì đó là ý muốn của bố, nên con nói với bố: đối với con, thân thể của chúng ta còn nguyên vẹn hay tan biến thành tro bụi có quan trọng gì đâu. Chúng ta là gì sau khi chết? Không là gì cả. Điều cốt yếu là cơ thể khỏe mạnh và hoạt bát trong suốt cuộc đời, để chúng ta có thể làm việc và tận hưởng… không gì khác ngoài điều đó!”.
Lão nông dân hỏi vặn lại. Và Predu nhiều lần lên tiếng phản đối, anh luôn muốn ôm lấy những lạc thú và niềm vui của cuộc sống. Hai người anh em họ hàng của Zio Diddinu đã cổ vũ cho anh; ngay cả người thanh niên mù lòa cũng gật đầu tán dương. Lão nông dân giả vờ tức giận, nhưng trong thâm tâm, lão vui lắm, vì thấy con rể đã trở thành một nhà thơ giỏi. Điều này báo trước sự tiếp nối truyền thống vẻ vang của gia đình!
Nhưng ngay cả khi cố gắng chứng minh sự phù phiếm của thú vui thể xác, lão Diddinu vẫn uống và giục những người khác cùng uống. Đến ba giờ sáng, tất cả đều say khướt; chỉ có người thanh niên mù, một tay nghiện rượu cừ khôi, và Predu, người uống ít nhất, vẫn giữ được đầu óc minh mẫn.
Nhưng Predu đã say sưa với bài hát của mình, và nhiều giờ trôi qua, ký ức về lời hứa mà Maria Franzisca đã dành cho anh khiến anh run lên vì sung sướng. Dần dần, giọng hát của các ca sĩ trở nên rời rạc, yếu đuối; người già bắt đầu nói lắp; chàng trai trẻ giả vờ buồn ngủ. Cuối cùng, tất cả đều ngủ gật; chỉ có người thanh niên mù vẫn ngồi yên, lặng lẽ gặm cái núm trên đầu cây gậy.
Đột nhiên, con gà trống gáy trong sân.
Predu mở mắt và nhìn anh thanh niên mù.
“Anh ấy không thấy mình” anh nghĩ, rồi thận trọng đứng dậy và bước ra sân.
Maria Franzisca lặng lẽ đi xuống cầu thang và sà vào vòng tay anh.
Nhưng người thanh niên mù biết rằng ai đó đã rời đi và đi ra ngoài; anh nghĩ đó là Predu. Anh không cử động mà chỉ thì thầm: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Ngoài kia, vầng trăng vẫn đang lấp ló sau những đám mây mờ tỏ, và trong đêm bàng bạc, ngọn gió đông thổi, mang theo mùi của biển và hơi nóng của sa mạc.
B.X dịch