HAI CHỮ VIỆT NAM TRONG THƠ CỦA CHÚA NGUYỄN PHÚC CHU(TRẦN ĐỨC ANH SƠN )
1. Nguyễn Phúc Chu (1675 - 1725) là con trai trưởng của chúa Nguyễn Phúc Thái và vương phi Tống Thị Lĩnh. Ông được đình thần tôn lên kế vị Nguyễn Phúc Thái vào năm 1691, trở thành vị chúa Nguyễn thứ sáu trị vì Đàng Trong. Ông cũng là một người sùng mộ đạo Phật và có nhiều đóng góp cho việc hưng nghiệp Phật giáo ở Đàng Trong. Năm 1694, chúa cho người sang Quảng Đông mời hòa thượng Thạch Liêm sang Thuận Hóa thuyết pháp về đạo Phật và lập trai đàn ở chùa Thiên Mụ để cầu siêu và tịnh độ cho binh dân xứ Thuận Hóa. Ông quy y với hòa thượng Thạch Liêm, phát tâm thọ giới Bồ tát tại gia vào năm 1695 và được hòa thượng Thạch Liêm ban cho pháp danh Hưng Long, đặt hiệu là Thiên Túng đạo nhân. Vì thế, khi sáng tác thi văn, ông thường ghi ba chữ Đạo nhân thư ở cuối các tác phẩm của mình.
Đặc biệt, Nguyễn Phúc Chu rất thích đặt làm các món đồ sứ ký kiểu ở Trung Hoa, trên đó, có đề các thi phẩm của ông, kèm hình vẽ minh họa nội dung các thi phẩm ấy. Đến nay, giới sưu tập đồ sứ ký kiểu đã sưu tầm được nhiều chiếc tô, hiệu đề Thanh ngoạn, có đề các bài thơ chữ Hán của chúa Nguyễn Phúc Chu vịnh các cảnh đẹp ở vùng đất Thuận - Quảng. Đó là những bài thơ ‘thất ngôn bát cú’, viết thành 10 dòng, gồm dòng tiêu đề, 8 dòng nội dung và dòng lạc khoản cuối cùng ghi ba chữ Đạo nhân thư. Cạnh mỗi bài thơ là một bức tranh ‘sơn thủy - nhân vật’, vẽ cảnh sắc, địa danh mà bài thơ miêu tả. Đây là lối trang trí ‘nhất thi, nhất họa’ rất phổ biến trên đồ gốm sứ phương Đông lúc bấy giờ.
Đọc bài thơ Hà Trung yên vũ trên chiếc tô sứ, tôi bất ngờ nhận thấy ở đầu câu thơ thứ 7 có hai chữ 越 南 (Việt nam). Đây là điều rất thú vị, bởi lẽ, trong 5 thi phẩm của chúa Nguyễn Phúc Chu viết trên đồ sứ ký kiểu được ghi nhận từ trước đến nay, thì đây là lần thứ hai có sự hiện diện của hai chữ Việt nam:
Tô sứ đề bài thơ Hà Trung yên vũ của Chúa Nguyễn Phúc Chu
Lần thứ nhất là trên chiếc tô đề bài thơ Ải lĩnh xuân vân (Mây xuân trên Ải Lĩnh). Toàn văn như sau: “Việt nam xung yếu thử sơn điên. Tuyệt lĩnh hoàn như Thục đạo thiên. Đãn kiến vân hoành tam tuấn lĩnh. Bất tri nhân tại kỷ trùng thiên. Lãnh triêm tu phát phi đồng tuyết. Thấp tiễn y thường khởi thị tuyền. Duy nguyện hải phong xuy tác vũ. Chính nghi thiên lý nhuận tang điền” (Xung yếu nước Nam có núi này. Khác chi đất Thục điệp non xây. Bóng giăng, chỉ thấy ba tầng lớn. Người ở, nào hay mấy đỉnh mây. Mi tóc lạnh, dù không tuyết rụng. Áo xiêm ngâm, dẫu chẳng nguồn vây. Chỉ mong gió bể đem mưa tới. Muôn dặm dâu xanh bát ngát bày).[1]
Ải Lĩnh là tên cũ của dải núi nằm giữa Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng ngày nay. Trên núi có xây dựng cửa ải nên gọi là Ải Lĩnh. Dân gian thường gọi là Ngải Lĩnh vì trên núi này có mọc nhiều cây ngải, tương truyền đến mùa hoa nở, gió thổi bay xuống biển, cá ăn được sẽ hóa thành rồng. Năm 1826, vua Minh Mạng cho xây lại cửa ải, đặt tên là Hải Vân quan, từ đó, quen gọi là núi (hay đèo) Hải Vân. Sách Ðại Nam nhất thống chí, bản in thời Duy Tân (1907 - 1916) có khắc in bốn câu đầu của bài thơ này nhưng trong các câu phá thừa có khác mấy chữ so với bài thơ viết trên đồ sứ ký kiểu. Sách này cũng xác nhận tác giả bài thơ trên là Hiển Tông Hoàng Đế, tức là chúa Nguyễn Phúc Chu.
Lần này, hai chữ Việt nam lại xuất hiện trên chiếc tô đề bài thơ Hà Trung yên vũ (Mưa bụi ở đầm Hà Trung). Toàn văn như sau: “Hải khí sơn phong táp táp kinh. Tiệm khan yên thấp tán thiên thanh. Ngư đăng kỷ điểm tri giang ngạn. Lữ khách lạc tiêu thính vũ thanh. Thiền tụng bất văn u khánh vận. Hương tư nan xích cổ nhân tình. Việt nam diệc hữu Tiêu Tương cảnh. Dục thiến đan thanh tả vị thành (Trần Đình Sơn dịch thơ: Sóng trào gió rét nghĩ mà kinh. Mù tỏa dần tan mây trắng xanh. Bến cũ đèn chài thấp thoáng điểm. Mưa buồn lữ khách lắng thâu canh. Phật kinh không vẳng dư âm khánh. Quê cũ ai hay nỗi nhớ mình. Việt Nam cũng có Tiêu Tương cảnh. Muốn vẽ mà sao vẽ chẳng thành).
Hà Trung là đầm nước lớn ở huyện Phú Lộc (Thừa Thiên Huế), nối thông với phá Tam Giang và đầm Cầu Hai. Đây từng là một thắng cảnh nổi tiếng của xứ Huế. Ngày trước, vua chúa nhà Nguyễn và các tao nhân mặc khách thường đi thuyền về Hà Trung, ngắm cảnh non nước, làm thơ đề vịnh và thưởng thức hải sản trong đầm.
2. Trước nay, các nguồn sử liệu chính thống đều khẳng định hai chữ 越 南 (Việt Nam) được chọn làm quốc hiệu của nước ta vào năm 1804, dưới triều vua Gia Long.
Theo sử liệu Trung Hoa, khi vua Gia Long phái sứ thần đi cầu phong và xin đổi quốc hiệu nước ta thành Nam Việt. Vua Gia Khánh của nhà Thanh đã không đồng ý, vì cho rằng “địa danh ‘Nam Việt’ bao hàm rất lớn, khảo sử xưa hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây đều nằm ở trong đó… Nguyễn Phúc Ánh cầu phong quốc hiệu Nam Việt, rõ ràng tự thị võ công muốn đòi xin thêm đất”. Vì thế, trong tờ dụ các quân cơ đại thần của Thanh triều vào ngày 6 tháng Tư năm Gia Khánh thứ 8 (26.5.1803), vua Gia Khánh dụ rằng: “Việc xin đặt tên nước là ‘Nam Việt’, thì nước này trước đây có đất cũ Việt Thường, sau lại được toàn lãnh thổ An Nam; vậy Thiên triều phong quốc hiệu cho dùng hai chữ ‘Việt Nam’; lấy chữ ‘Việt’ để đằng trước tượng trưng cương vực thời xưa; dùng chữ ‘Nam’ để đằng sau, biểu tượng đất mới được phong; lại còn có nghĩa là phía nam của Bách Việt; không lẫn lộn với tên nước cũ Nam Việt. Một khi tên nước đã chính, nghĩa của chữ cũng tốt lành; vĩnh viễn thừa hưởng ân trạch của Thiên triều”. (Hồ Bạch Thảo, Những sử liệu liên quan đến việc đặt tên nước Việt Nam, http://www.talawas.de/, ngày 26.8.2005).
Trong khi đó, sách Đại Nam thực lục lại chép: “Tháng Hai (năm Giáp tí - 1804), ngày Mậu thìn, (vua Gia Long) xa giá đến kinh sư. Ngày Quý dậu vua yết ở Thái Miếu… đặt quốc hiệu là ‘Việt Nam’. Ngày Đinh sửu đem việc cáo Thái Miếu. Lễ xong vua ngự ở điện nhận lễ chầu mừng. Xuống chiếu bố cáo ở trong ngoài”. Chiếu có đoạn viết: “Đế vương dựng nước, trước phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ nhất thống. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ ‘Việt’ mà đặt tên nước. Hơn 200 năm nối hòa thêm sáng, vững được nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận trong ngoài yên lặng, chợt đến giữa chừng, vận nước khó khăn, ta lấy mình nhỏ, lo dẹp giặc loạn, nên nay nhờ được phúc lớn, nối được nghiệp xưa, bờ cõi ‘Giao Nam’ đều vào bản tịch. Sau nghĩ tới mưu văn công võ, ở ngôi chính, chịu mệnh mới nên định lấy ngày 17 tháng Hai năm nay (1804) kính cáo Thái Miếu, cải chính quốc hiệu là ‘Việt Nam’, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy ‘Việt Nam’ làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa” (Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Chính biên, Đệ nhất kỷ 1).
Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu trong nước đã công bố tư liệu cho thấy hai chữ Việt Nam đã xuất hiện trong các thư tịch cổ của nước ta sớm hơn nhiều thời điểm 1804. Cụ thể, hai chữ Việt Nam đã xuất hiện trên văn bia chùa Bảo Lâm (viết năm 1559), văn bia chùa Cam Lộ (viết năm 1590), văn bia đình Thủy Môn (viết năm 1670) ở Đồng Đăng (Lạng Sơn). Cách đây hơn 15 năm, PTS. Đỗ Bang cũng đã công bố một bản tuyên cáo về việc đổi quốc hiệu của nước ta từ An Nam sang Việt Nam trong tác phẩm Dụ Am văn tập của Phan Huy Ích, ghi việc “vâng mệnh vua soạn thảo bản tuyên cáo về quốc hiệu mới”. Vì Phan Huy Ích là văn thần thân tín của vua Quang Trung nên PTS. Đỗ Bang cho rằng việc đổi quốc hiệu nước ta thành Việt Nam có từ triều Tây Sơn (Đỗ Bang, Quốc hiệu nước ta có từ bao giờ, Thế Giới Mới, số 92, tháng 5/1994). Những phát hiện trên cho thấy từ lâu, hai chữ Việt Nam đã được ông cha ta dùng để chỉ cương vực của đất nước.
Trở lại với hai chữ 越 南 (Việt nam) trong hai bài thơ Ải lĩnh xuân vân và Hà Trung yên vũ của chúa Nguyễn Phúc Chu. Trước nay, khi dịch hai chữ này trong bài thơ Ải lĩnh xuân vân, phần lớn các nhà dịch thuật Hán Nôm đều cho rằng hai chữ Việt nam này không chỉ quốc hiệu nước ta lúc bấy giờ, vì đến năm 1804, vua Gia Long mới chọn hai chữ Việt Nam làm quốc hiệu nước ta. Vì thế, họ dịch hai chữ Việt nam này là “đi / vượt về phía Nam” hay “vùng đất phương Nam của nước Việt”. Tuy nhiên, bản dịch sách Đại Nam nhất thống chí (Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb Thuận Hóa, 1992) thì cho rằng hai chữ này chỉ tên nước Việt Nam, khi dịch câu: “Việt nam hiểm ải thử sơn điên” là “Núi này ải hiểm đất Việt Nam”.
Nay với việc xuất hiện bài thơ Hà Trung yên vũ của chúa Nguyễn Phúc Chu trên chiếc tô sứ ký kiểu mà ông Trần Đình Sơn vừa mới sưu tầm được, trong đó có câu: Việt Nam diệc hữu Tiêu Tương cảnh (Việt Nam cũng có cảnh Tiêu Tương), tôi cho rằng chúa Nguyễn Phúc Chu đã không dùng chữ Việt Nam với ý nghĩa là “đi / vượt về phía Nam” hay “vùng đất phương Nam của nước Việt” như nhiều người từng nghĩ. Một vị chúa đã chủ trương xóa tên nước Chiêm Thành để đổi làm trấn Thuận Thành (về sau đổi làm phủ Bình Thuận); chủ trương chia đất cũ của Chân Lạp thành hai dinh: Phiên Trấn và Trấn Biên, nhằm xóa bỏ tất cả những ảnh hưởng còn sót lại của hai vương quốc lân bang đã bị các triều đại Đại Việt thôn tính, thì việc đặt cho vùng đất do các chúa khai phá và cai quản ở Đàng Trong một quốc hiệu mới là Việt Nam, không phải là một khả năng không được tính đến.
Cũng cần nhắc lại rằng, vào năm 1701 chúa Nguyễn Phúc Chu đã sai Hoàng Thần và Hưng Triệt đem quốc thư và cống phẩm sang Trung Hoa để cầu nhà Thanh phong cho ông làm vua một quốc gia riêng biệt, tách hẳn khỏi Đàng Ngoài, để thấy cái ước vọng lập cho mình một quốc gia riêng, có quốc hiệu riêng, đã hiện hữu mạnh mẽ trong tâm trí của Nguyễn Phúc Chu như thế nào!
Vậy thì đã đến lúc nên đặt lại vấn đề: Quốc hiệu Việt Nam có từ khi nào? mà nhiều nhà sử học Việt Nam đã nêu ra và đã gây nên những cuộc tranh luận học thuật rất thú vị trên diễn đàn sử học nước nhà vào những năm 1990 của thế kỷ trước. Mong lắm thay!
T.Đ.A.S.
[1] Trên tạp chí Non Nước số tháng 3/2011 đã giới thiệu chiếc tô sứ đề bài thơ này trong bài viết “Hai bài thơ của chúa Nguyễn Phúc Chu và ý tưởng tạo thêm điểm đến cho du khách ở Đà Nẵng”.