Đi giữa hương trầm - HUỲNH LÊ
Đã 30 năm, kể từ ngày ông Phan Văn Nuôi được nhận vào làm việc tại Nghĩa trang nhân dân Gò Cà, xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang rồi chuyển về công tác tại Nghĩa trang liệt sĩ thành phố. Như mọi lần, người đàn ông ấy lại cặm cụi với mấy cây vạn tuế, dương xỉ mọc trong khuôn viên nghĩa trang. Hết phun thuốc trừ sâu, tưới nước, cắt tỉa cành lá, tạo dáng cho cây đến nhổ những cây cỏ mọc dài dưới chân bia mộ…
Món nợ ân tình
Những ngày hè nắng như thiêu đốt, trong căn phòng nhỏ nằm dưới gốc cây phượng tỏa bóng một khoảng đất rộng, ông Phan Văn Nuôi chậm rãi châm điếu thuốc. Căn phòng chỉ có độc nhất một chiếc giường con và bộ bàn tiếp khách. Như lời ông kể, trước khi chuyển về công tác tại Ban quản lý Nghĩa trang liệt sĩ thành phố, ông Nuôi từng có 18 năm làm công việc đào huyệt, mai táng tại Nghĩa trang nhân dân Gò Cà. Làm một công việc ít người lựa chọn, ông Nuôi xem đó là "công việc này chọn tôi chứ tôi không chủ động chọn nó”.
Trước khi đến với công việc này, trong vài lần theo anh em hàng xóm đi đào huyệt để chôn người trong thôn vừa mất. Chứng kiến giây phút phân ly tử biệt giữa người đi, kẻ ở, ông Nuôi cảm nhận đây là món nợ ân tình khó dứt. Thế rồi, năm 1979, ông xin vào làm việc tại Ban Nghĩa trang thành phố và được phân công đi chăm sóc nhiều nghĩa trang khác nhau. Nay, ở tuổi 60, ông đã có hơn 30 năm gắn bó với công việc này. "Làm công việc chăm sóc mộ phần, tôi luôn thấy mình mắc nợ những người xa lạ. Đó là món nợ ân tình, tình nghĩa mà bản thân tôi không thể lý giải được. Bởi mỗi lần có người đến thắp hương, viếng mộ người thân, gặp tôi, họ đều có chung một câu "nhờ anh giúp chúng tôi chăm sóc mộ phần người đã khuất”.
653 ngôi mộ ở Nghĩa trang liệt sĩ thành phố được sắp xếp theo các khu 1, 2, 3, 4, 5. Trong đó có 194 mộ liệt sĩ vô danh. Đây là khu vực ông chăm chuốt hơn cả. Vị trí, tên tuổi từng ngôi mộ trong nghĩa trang được ông Nuôi nhớ rõ. Thế nên, mỗi khi có người đến thắp hương, ông đều chỉ chính xác vị trí ngôi mộ cần tìm để người thân họ đỡ nhọc công.
Có lẽ, số lượng mộ phần không nhiều nên thành viên Ban quản lý nghĩa trang chỉ có… mỗi mình ông. Cũng vì có một mình, nên ông Nuôi không được về nhà mỗi đêm, dù từ nhà ông ra đến nghĩa trang chỉ khoảng 1 cây số. Khi mặt trời bắt đầu ló dạng, ông đã dậy tưới nước, tỉa cành cho cây. Mãi đến trưa, ông tranh thủ chạy xe máy về nhà ăn cơm, đầu giờ chiều quay lại nghĩa trang tiếp tục công việc. Tranh thủ giữa trưa nắng, ông xách kéo đi cắt cỏ. Chiều tối, ông quay về nhà tắm rửa, cơm nước. Chưa hết chương trình thời sự tối, ông Nuôi đã ra lại nghĩa trang. Có người hỏi ông: "Ông ngủ mãi một mình ngoài nghĩa địa vậy không sợ ma à?”. Ông cười: "Không những không sợ ma, mà mỗi tối tôi còn mở rộng hai cánh cửa sổ để đón gió”.
Một ngày cứ thế lại trôi đi, một mình ông Nuôi gắn bó với khu nghĩa trang thành phố từ ngày chia tách tỉnh. Cắt cỏ một mình, tưới cây một mình, riết rồi ông nói chuyện với… chính mình, với những ngôi mộ. Vào dịp lễ, Tết, kỷ niệm 27-7, một mình kham không nổi, ông phải kêu thêm vài nữ công nhân nữa đến phụ ông cùng dọn dẹp mộ phần tươm tất để đón những đoàn khách viếng thăm. Hôm tôi đến, tại nghĩa trang có thêm hai chị Đặng Thị Côi và Trà Thị Sáu, quê xã Đại Hiệp, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam đang giúp ông Nuôi dọn dẹp cỏ gai. Chị Côi cho biết, mỗi năm cứ đến khoảng 15-7, hai chị lại được gọi đi làm cỏ nghĩa trang chừng 10 ngày. Khi làm công việc chăm sóc mộ phần các anh hùng, liệt sĩ, ngoài việc có thêm thu nhập để lo cho con, các chị còn cảm thấy tâm mình được thanh thản và bình yên.
Tuổi thanh xuân để lại
Ở các khu nghĩa trang, thỉnh thoảng vẫn thấy bóng dáng những người phụ nữ tham gia công tác bảo quản, chăm sóc mộ phần. Trường hợp chị Nguyễn Thị Bé, quê huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị là một ví dụ. Nhập ngũ từ năm 1976. Ba năm sau chị làm đơn tình nguyện về chăm sóc Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn khi mới 22 tuổi, chưa lập gia đình. Ngày ấy, Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn còn bạt ngàn cây cối. Để đến được đây, chị phải đeo ba lô vượt 20 cây số đường rừng hoang vắng, đầy rẫy nguy hiểm.
Là một trong ít người đầu tiên có mặt tại nghĩa trang làm công việc dọn dẹp vệ sinh, hương khói cho mộ phần các liệt sĩ; ban ngày, chị tỉ mẫn quét dọn từng lá cây rừng rơi xuống; đêm, chị lặng lẽ cầm bó hương đi thắp từng mộ phần. Những khi như thế, dáng chị như lọt thỏm giữa hàng ngàn ngôi mộ lặng lẽ nằm cạnh nhau.
Theo lời chị Bé, từ ngày đường Hồ Chí Minh được chỉnh trang, điều kiện đi lại dễ dàng đã tạo cho nghĩa trang một sức sống mới. Công việc của Ban Quản lý Nghĩa trang Trường Sơn lại càng bề bộn. Hằng tháng, cứ đến mồng một và ngày rằm, những người cán bộ, nhân viên quản trang lại mang từng bao tải nhang đi thắp đủ các mộ phần liệt sĩ, xong việc trở về nhà thì kim đồng hồ đã chỉ sang ngày hôm sau. Vậy nhưng làm công việc ấy, ai cũng thấy thanh thản trong lòng và giấc ngủ đến với mỗi người dường như ngon hơn.
Ngồi trò chuyện với chị dưới tán cây già giữa Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, tôi nhận ra rằng, trong sâu thẳm người đàn bà ấy có một sức mạnh phi thường của lòng tin và tình yêu dành cho những đồng đội đã hi sinh. Đã ba mươi năm gắn bó tuổi thanh xuân với Trường Sơn, trong tâm trí của chị Bé, luôn văng vẳng tiếng hô "Xung phong” vào mỗi sáng sớm mà chị vẫn thường nghe tại khu nghĩa trang, như khơi gợi lại một thời hào hùng mà dân tộc đã trải qua. Từng là bộ đội, chị thấu hiểu nỗi đau và những mong ước của người lính. Nhưng, có biết bao người đã không thể chạm tới những ước mơ rất đời thường và giản dị như thế trước khi hòa thân mình vào đất mẹ.
Dưới cái nắng chói chang của miền Trung, hàng hàng ngôi mộ nằm san sát nhau tạo thành nơi linh thiêng che chở cho những người chiến sĩ đã hy sinh. Vẳng đâu đó tiếng chổi quét rác từ xa vọng lại. Giữa nơi hoang vắng, tiếng chổi tre sột soạt, những bóng người lao công thấp thoáng, như gợi một cảm giác bình yên cho những con người đứng lặng trước nghĩa trang.
H.L