TRONG NHÀ TÙ HOẢ LÒ,
VƯƠNG GIA KHƯƠNG sáng tác kịch thơ
PHAN LÝ LỆ VÂN
Tốt nghiệp Trường kỹ nghệ thực hành ở Huế, Vương Gia khương(1) làm nhân viên đường sắt ở Turan (Tourane, tên cũ của Đà Nẵng). Ông vào Đoàn thanh niên dân chủ (1938), rồi vào Đảng Cộng sản (1940). Đầu năm 1942, ông bị thực dân Pháp bắt đưa ra giam tại nhà tù Hoả lò ở Hà Nội. Ở đây, ông gặp nhạc sĩ Đỗ Nhuận, anh em gắn bó nhau trong đấu tranh, biết đôi điều sơ đẳng về sáng tác nhạc nên thúc đẩy nhau viết bài hát.
Vào giữa năm 1942, một số bạn tù chính trị mang tâm tư người chiến bại, giảm sút ý chí chiến đấu. Vương Gia Khương bị cùm. Trước tình hình ấy, ông sáng tác vở kịch thơ để nhắc nhở họ, chê trách ở mức độ cái yếu kém về tinh thần, mà bọn cai tù và lính canh giữ có thể xem được. Tên vở kịch thơ là "Chiến sĩ và Hằng Nga".
Ban đầu, vở kịch được bí mật chuyền tay nhau đọc trong bạn tù.
Khi dàn dựng vở diễn, Vương Gia Khương đóng vai Hằng Nga, Thanh Lạng đóng vai chiến sĩ. Tiếng sáo trúc của Đỗ Nhuận đỡ giọng ngâm của diễn viên.
Đây là trích lớp 1 trong cảnh I:
Chiến sĩ vẻ buồn rầu đi tha thẩn trong rừng, dưới ánh trăng, ngâm thơ:
Đâu thế nhỉ? Tiếng ai đâu thế nhỉ?
Nghe êm êm như dòng suối Vân tuyền
Lời của ma hay giọng hát của tiên
khiến cảnh tục cũng say màu hư ảo
Nhưng lòng ta vẫn chưa nguôi sầu não
sầu bao la, thất bại hãy còn vương...
Hằng Nga xuất hiện.
Vâng, chính thiếp giữa đêm trường vắng lặng
Lìa Quảng Hàn, đôi phút xuống trần gian
Trăng đêm nay sao tráng lệ, huy hoàng
Sương ngọc bích tỏa men nồng rượu mạnh
Lá oà reo trong hào quang lấp lánh
nhịp dương cầm muôn điệu cảnh thần tiên
ơi chiến sĩ cũng như bao kẻ khác
cũng mê mùi đường mật, hám duyên tơ
cũng dại khờ như một đứa trẻ thơ
ham sữa ngọt, lãng quên mùa sương gió
Chí gang thép và lòng son sắt đó
chưa được rèn trong lò lửa gian nguy
chưa được nung trong những cuộc thịnh suy
vẫn chưa đáng cho trần gian tin tưởng
Men nụ sắc ướp hương nồng mộng tưởng
vẫn muôn đời làm chúa tể trần gian
Ai ngồi trên chín bệ của Minh Hoàng
Ai chiến thắng sức phi thường của Hạng Vũ
Mở miệng cười, nghiêng nước, nghiêng thành, ai?
Thơ tù đây, ta với khách anh tài
xin vĩnh biệt để phương trời rộng bước
Chiến sĩ tỏ ra ân hận.
Ôi, nhục nhã, một thanh niên anh dũng
đã quên thù non nước, để si mê
đã quên thân bách chiến, quên lời thề
với nhiệm vụ đôi vai người chiến sĩ
Ơi lý tưởng cao siêu và tuyệt mỹ
đã đắm chìm trong sóng mắt thiên nga
đã mê ly trước miệng ngọc, tay ngà
trót lầm lỡ để sai đường sứ mệnh!
***
Vương Gia Khương sinh ngày 15-1-1921 tại xã Minh Hương, tổng Phú Triêm, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, mất ngày 28-8-1985 ở Hà Nội. Gia đình tộc Vương hiện ở ngôi nhà số 40 đường Phan Châu Trinh, phố cổ Hội An.
Trong tù, ông còn sáng tác nhiều ca khúc như: Ủng hộ Liên Xô (1940), Cờ Việt Minh (1941), Hò la (1942), Côn lôn (1943), Không khuất phục (1945) v...v, in trong tập "Cờ Việt Minh", Nhà xuất bản âm nhạc, Hà Nội - 1960, và một số ca khúc phổ biến trong bộ đội ở chiến trường Liên khu 5 và Khu 6.
P.L.L.V