Tống Phước Phổ - Nhà soạn Tuồng hát Bội thâm nho - Trần Hồng
Tống Phước Phổ sinh năm 1902 tại làng An Quán, Huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Mồ côi cha sớm. Lúc nhỏ ông học chữ Nho với người bác ruột. Ông học rất giỏi, chưa kịp thi Hương thì triều đình có lệnh bãi thi. Ông cậu Nguyễn Hiển Dĩnh thấy cháu ngoại thông minh, lanh lợi nên cụ Tuần An Quán cho làm thư ký chép Tuồng cho gánh hát của Cụ. Tất cả các vở Tuồng của cụ Dĩnh sáng tác đều do Tống Phước Phổ chép lại. Được xem diễn tập và hằng đêm ngồi trong Sân khấu "Nhắc Tuồng" cho các Nghệ sĩ Nguyễn Lai, Nguyễn Nho Tuý, Ngô Thị Liễu, Nguyễn Phẩm biểu diễn, nên ông thuộc nhiều vở Tuồng. Năm 18 tuổi được sự khích lệ của bạn bè thân thiết, những diễn viên đào, kép giải, ông mạnh dạn viết vở Tuồng Lâm Sanh Xuân Nương nhưng ai cũng sợ không dám trình lên Cụ Tuần. Nhân một buổi giảng Tuồng cho các nghệ sĩ, thấy cụ Dĩnh vui vẻ, các ông Nguyễn Lai, Nguyễn Nho Túy, Nguyễn Phẩm mới bẩm với Cụ: "Chúng con có nhận được vở Tuồng Lâm Sanh Xuân Nương ở quê gởi lên, trình cụ nghe thử". Cụ Tuần nghe đọc vở Tuồng xong, cụ bảo: "Khá đó, cần sửa vài chỗ là cho tập để vào kịch mục diễn được". Tống Phước Phổ như muốn khóc vì quá xúc động. Sau thành công đó, Tống Phước Phổ càng đam mê và sáng tác thêm các vở: Phạm Công Cúc Hoa, Lục Vân Tiên... Có lần cụ Tuần khen: "Mi viết Tuồng có chỗ các cụ viết không bằng đó".
Năm 1925, Tống Phước Phổ được bà dì khá giả mà không có con gọi vào Sài Gòn ở với bà. Năm 1926, nghe tin cụ Nguyễn Hiển Dĩnh mất, Tống Phước Phổ xin bà dì về quê thọ tang cụ Tuần, đang chờ xe về quê nhưng bị bạn bè giữ lại, cuối cùng hết tiền ông đành ở lại Sài Gòn cùng làm nghề culi xe kéo kiếm sống. Được ông Trương Kim Châu làm thầu khoán giác ngộ Cách mạng. Năm 1930 ông được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương, làm bí thư Chi bộ "culi" xe kéo thuộc Đảng bộ Sài Gòn Chợ Lớn do đồng chí Phan Bôi và đồng chí Hà Huy Giáp điều hành. Trong cuộc mitting trước công chúng, ông được Đảng phân công đứng gác vòng ngoài, đồng chí Lý Tự Trọng bảo vệ vòng trong cho đồng chí Hoàng Hữu Nam (tức Phan Bôi) lên diễn thuyết công khai để gây tiếng vang nhân ngày kỷ niệm khởi nghĩa Yên Bái. Tên mật thám Legrant dẫn lính đến bắt đồng chí Hoàng Hữu Nam. Lập tức Lý Tự Trọng bắn thằng Legrant bị thương nặng đưa về nhà thương thì chết. Lý Tự Trọng bị bắt và bị giết. Tống Phước Phổ đau đớn viết bài thơ:
Thương tiếc Lý Tự Trọng
Hôm qua trao đổi dặn dò nhau
Nào biết hôm nay bạn đứt đầu
Rõ thấy tuổi thơ mà chí cả
Tăng thêm sức mạnh bởi thù sâu
Búa rìu bạn đã không nao núng
Sắt đá tôi nguyền chẳng lãng xao
Truyền thống một người thân ngã xuống
Đứng lên đã có triệu người sau.
Sau khi tổ chức Đảng ở Sài Gòn bị vỡ, ông trở về quê hương, bị chính quyền thực dân kết án tù 1 năm. Ra tù ông trở lại Sài Gòn, mong nối đường dây của Đảng, nhưng các đồng chí Hà Huy Tập, Nguyễn Hải Triều đã bị sa vào lưới giặc. Ông ở lại kiếm việc làm cũng rất khó khăn và mất liên lạc với Đảng, ông đành trở về Quảng Nam với hai bàn tay trắng.
Năm 1937 ông tham gia gánh hát Tân Thành Ban do ông Nguyễn Lai thành lập, chủ trương cải cách Tuồng, mang tính hiện đại. Giai đoạn này ông đã sáng tác nhiều vở Tuồng mới như: Tội của ai?, Ai lên phố Cát, Cờ trắng rừng xanh... Nội dung các vở Tuồng đã bộc lộ rõ tinh thần yêu nước, chống ngoại xâm. Vì thế, nhiều lần bị Sở mật thám Pháp gọi đến để răn đe, hăm dọa.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông làm Chủ tịch xã Điện Minh, huyện Điện Bàn. Công việc bề bộn nhưng ông vẫn tranh thủ sáng tác các vở Tuồng như: Vì bạn quên mình, Anh Lan chị Lan, được ông Võ Bá Huân, Trưởng Ty Công an Quảng Nam đỡ đầu cho các gánh hát ở các huyện trong tỉnh Quảng Nam biểu diễn phục vụ cho bộ đội, đồng bào nhiều lần và được hoan nghênh đón nhận.
Năm 1952, đoàn Tuồng Liên khu Năm thành lập do ông Hoàng Châu Ký chịu trách nhiệm mời các nghệ nhân Tuồng có các ông Nguyễn Lai, Nguyễn Nho Túy, Ngô Thị Liễu, Văn Phước Khôi, Nguyễn Tri... Và mời ông Tống Phước Phổ tham gia soạn vở. Cuối năm 1954, đoàn Tuồng Liên khu Năm tập kết ra Hà Nội, dự Đại hội Văn Công toàn quốc. Năm 1955, Tống Phước Phổ được cử đi làm cán bộ Cải cách ruộng đất. Xong ba năm công tác ông về Đoàn Tuồng Liên khu Năm.
Ông Tống Phước Phổ có vóc dáng cao, gầy, bước đi khoan thai, nét nghiêm nghị nho nhã, nhưng luôn nở nụ cười, dễ gần gũi với các bạn trẻ. Ông ở 1 phòng nhỏ, 1 giường cá nhân ông kê thêm 1 chiếc băng trong vách cho rộng thêm, 1 bàn nhỏ để sách và đèn bàn. Quần áo ông xếp làm gối, áo mặc hằng ngày ông đóng đinh treo trên vách ngay ngắn cùng chiếc mũ len đội đầu. Thích kể chuyện và chơi với bọn trẻ trong Đoàn. Tối tối ông thường muốn có người đến chơi: Bích Ngọc (Violon), Đặng Hùng (múa), Văn Giảng (múa) đến ngồi nghe ông kể chuyện rồi bác cháu cùng ôm nhau ngủ cho ấm. Có lẽ vì ông chỉ có đứa con trai duy nhất Tống Phước Thọ còn ở lại Miền Nam nên ông luôn nhớ con. Một hôm ông được tin, anh Thọ tham gia phong trào Thanh niên Sài Gòn chống Mỹ, anh đã bị quân Mỹ bắn chết ngay trên đường phố Sài Gòn trong cuộc biểu tình đòi Mỹ rút khỏi miền Nam. Ông đau đớn tột cùng đã viết bài thơ:
Khóc con
Cây già mong được nẩy chồi non
Trước cảnh cô đơn vợi nỗi buồn
Vì nước, cha đi dù tóc bạc
Diệt thù, con ở vững lòng son
Chết rồi! Đọc rõ tin thư đến
Cười ngất, đừng cho giọt lệ tuôn
Còn giống, còn nòi, còn đất nước
Còn đàn trẻ đó, vẫn còn con.
Nén đau thương, ông lao vào đọc sách, ngày đêm chăm chỉ sáng tác các vở Tuồng đầy tâm huyết, nội dung bộc lộ rõ tinh thần yêu nước, chống ngoại xâm, văn chương trau chuốt, mượt mà, giàu tính sân khấu, dễ gần gũi với quần chúng. Là soạn giả Tuồng, ông còn làm thơ, viết báo.
Suốt cuộc đời cầm bút, ông đã sáng tác hơn một trăm vở Tuồng mới và nhiều vở cải biên, chỉnh lý từ những vở truyền thống. Những vở Tuồng : Hai Bà Trưng khởi nghĩa, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lam Sơn tụ nghĩa, Lục Vân Tiên, An Tự Công Chúa là những vở Tuồng hay nhất của ông. Đến nay các Nhà Hát, Đoàn Tuồng chuyên nghiệp tiếp tục dàn dựng và biểu diễn phục vụ quần chúng. Ông mất năm 1991, tại Bệnh viện C Đà Nẵng, thọ 90 tuổi. Năm 1998, Nhà soạn Tuồng Tống Phước Phổ được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng cao quý về Văn học Nghệ thuật rất xứng đáng.
T. H