Nhớ làng K’ro Lapia - Campuchia - Trần Ngọc Phương
Những người bạn thợ săn thiện xạ
Làng K’ro Lapia có nhiều thợ săn giỏi, đã đi săn là có thịt mang về. Họ có phong cách săn của các tay súng siêu thiện xạ: Đi săn ban ngày và bắn thú đang chạy. Nổi tiếng về tài bắn trăm phát trăm trúng ở làng có Tà Đưa và Tà Đù. Một lần bộ đội theo bảo vệ đoàn săn, tôi đi trước, sau tôi là Tà Đưa. Đang đi thì Tà Đưa nổ súng, nghe tiếng đạn rít bên tai, bực mình vì sự bất cẩn này, tôi quay lại quát lớn:
- Bắn gì?
- Con mang.
- Nó đâu?
- Chết rồi!
Trả lời tôi xong, Tà Đưa vượt lên trước, đến chỗ con mang nằm. Và như làm xiếc, hai tay thợ săn trong đoàn, rút dao cứa mấy đường rồi lột da con mang. Chưa đầy năm phút, con mang đã thành bốn đùi thịt nằm trên xe bò.
Không những thiện xạ, các tay thợ săn còn nắm rất vững tập tính của từng loài thú và thuộc nằm lòng địa hình, sông suối, bãi tráng của từng cánh rừng. Bởi vậy mà chẳng cần bản đồ, địa bàn, họ có thể cắt rừng đi đến bất cứ nơi nào cần đến để săn thú.
Mấy năm ở K’ro Lapia tôi đã theo Tà Đưa, Tà Đù đi săn không biết bao nhiêu chuyến, ăn đủ các loại thịt thú rừng, mà vẫn chưa hết ngạc nhiên về khả năng phán đoán của họ. Không kể các loại thú nhỏ như chồn, cheo, nhím, thỏ, họ không bắn vì phí đạn, dân ở đây còn có tài săn voi...
Kỷ niệm về chú chó Kh’mau
Thiên nhiên ưu đãi vậy nhưng chuyện thiếu đói với dân làng K’ro Lapia lại là chuyện thường niên. Năm được mùa thì nhà thiếu, nhà đủ. Năm mất mùa thì cả làng thiếu ăn vài tháng. Thiếu gạo ăn thôi chứ họ không đói. Thay cho cơm, họ vào rừng đào củ mài, củ k’đuôch. Củ mài thì còn khó tìm chứ củ k’đuôch thì rất sẵn, muốn bao nhiêu cũng có. Năm 1981 tre trong làng K’ro Lapia trổ bông rồi kết trái rụng rất nhiều. Người dân gọi là lúa tre, hốt về, xay giã được một loại hạt tựa gạo lức. Nấu thành cơm ăn hơi nhạt nhưng cũng đỡ đói. Dân làng nói tre rất ít khi trổ bông, cả đời người có khi chỉ thấy một lần. Mà tre đã trổ bông thì mất mùa nặng. Quả vậy năm ấy K’ro Lapia mất mùa, dân thiếu cả bốn, năm tháng ăn. Tỉnh, huyện cũng có cho gạo cứu đói nhưng không đáng kể. Dân làng đói xơ xác phải ăn củ k’đuôch, gạo tre thay cơm dài ngày.
Hôm tôi vào nhà me Xường, thấy có con chó con gầy trơ xương đang nằm thiêm thiếp bên cạnh chó mẹ. Me Xường bảo chó mẹ đẻ được bốn con mà chết hết vì đói, chỉ còn con này là con khỏe và hay nhất đàn, được mẹ dành sữa cho nên mới sống tới giờ. Tôi hỏi:
- Vì sao biết nó hay nhất?
- Đứa con nào được chó mẹ thương, đi đâu cũng tha nó đi trước nhất, là con chó hay nhất đàn.
Nói rồi bà hỏi tôi có mang nó về nuôi được không. Nhìn con chó con sắp chết, tôi đã muốn trả lời không, vì nghĩ rằng khó cứu được nó. Nhưng nghe giọng nói tha thiết của bà, tôi không nỡ từ chối. Chẳng biết chó mẹ có hiểu gì không mà nó nhìn tôi đầy cảnh giác. Me Xường lại bên, xoa đầu nó và nói: Để bộ đội nuôi thằng Kh’mau, nhà mình không còn gì cho nó ăn nữa rồi, nó sẽ chết đấy! Bà bế con chó con lên, chó mẹ cũng đi theo. Khi bà trao cho tôi, con chó mẹ còn bước tới, liếm vào người con, miệng rên vài tiếng ư ử như từ biệt và gửi gắm nó cho tôi.
Thấy tôi mang một con chó con sắp chết về, mấy đứa trong tiểu đội cười tôi: Mày mang về chôn hả? Cười vậy nhưng mấy hôm sau, bọn nó rất tích cực đi xin đường, sữa về chăm sóc con chó. Trời không phụ lòng người, con chó đã được cứu sống. Thấy lông của nó đen tuyền, bọn tôi gọi nó là Mực nhưng có vẻ nó đã quen tên me Xường đặt cho, đành gọi là Kh’mau (nghĩa tiếng Việt là đen). Kh’mau lớn nhanh và dễ dạy. Các chuyên gia xem tướng chó của tiểu đội bắt đầu săm soi những tướng tốt của nó. Thằng Hòa có vẻ rành hơn cả vì từng nuôi chó săn, tuyên bố rằng: Đây là con chó hội đủ các tướng tốt của một chó săn thượng hạng. Nó phân tích, thứ nhất có u sọ, thứ hai có bớt lưỡi, thứ ba mũi ướt, thứ tư bốn chân đều có móng đeo - đặc biệt hai chân sau có móng đeo đôi - thứ năm chân cao, ngực nở, eo thon.
Nghe nó phán thì biết vậy chứ tôi không rành về chó, chỉ biết Kh’mau khá khôn, hiểu ý chủ rất nhanh, đôi khi có cảm giác như nó hiểu được tiếng người. Nó bắt đầu bộc lộ khả năng săn thú từ lúc mới sáu tháng tuổi. Đêm đó tôi đang ngủ thì nó đến giường cào chân tôi và ẳng lên mấy tiếng nho nhỏ. Tôi bật dậy, nó dẫn tôi ra hiên nhà. Một con thỏ rừng nằm ở đó, trên cổ là vết răng của Kh’mau. Từ đó thỉnh thoảng vào những đêm trăng sáng, nó lại bắt được thỏ và bao giờ tôi cũng là người đầu tiên nó báo tin. Thấy Kh’mau săn được, mỗi lần đi tuần tôi thường dẫn nó theo, và không ít lần nó bắt được cả chồn. Có lần nó chạy trước, mất hút, nửa tiếng sau mới quay lại trên miệng ngậm con gà rừng. Chẳng biết bằng cách nào nó bắt được loài gà bay như chim này. Lạ nữa ở đơn vị nó từng đuổi gà bị mắng từ đó không bao giờ nó đuổi nữa. Bây giờ nó dám săn gà mang về, lẽ nào nó phân biệt được gà nhà và gà rừng?
Không chỉ khôn ngoan, săn thú giỏi, Kh’mau còn có linh giác, cảm nhận được mối nguy hiểm cận kề. Tối hôm đó tiểu đội hai nấu chè, trong lúc tôi ngồi chơi với Binh và Hai nơi bếp lửa, Kh’mau cứ bồn chồn đi ra, đi vô. Thấy vậy tôi quát “Kh’mau! Mày làm gì mà rối rít vậy?”. Nó kêu lên ăng ẳng trong miệng, đuôi vẫy lia lịa chừng như có việc gì gấp lắm. Tôi đứng lên, nó tiến tới cắn vào ống quần tôi lôi đi. Tôi bước đi thì nó bỏ ống quần tôi ra chạy trước. Chạy một đoạn nó quay lại cắn quần tôi lôi mạnh vẻ hối thúc. Tôi rảo bước theo nó được khoảng hơn chục thước thì ùng oàng tiếng B40, tiếng AK của địch tập kích ngay hướng nhà tiểu đội hai, sau lưng tôi. Tôi chỉ kịp nhoài người nằm xuống trườn đi, tiếng đạn rít bên tai làm Kh’mau hoảng sợ nhưng nó vẫn không rời tôi nửa bước. Tôi lấy tay rờ đầu nó, nói khẽ: Nằm xuống. Cả người nó mồ hôi ướt đẫm và run bần bật. Tôi vỗ nhẹ vào đầu nó trấn an, rồi lợi dụng lúc tiếng súng ngớt tôi chồm dậy lao về nhà tiểu đội lấy súng. Kh’mau bám theo sát gót tôi cho tới lúc cả hai xuống được giao thông hào. Địch đã rút sau khi tập kích chớp nhoáng. Thằng Binh bị thương nặng, con Hai đã hy sinh. Lần đó Kh’mau đã cứu tôi thoát chết trong gang tấc.
Lần khác, nửa đêm, tôi đang ngủ thì Kh’mau đến cào chân tôi. Tôi bật dậy, nó kéo tôi ra giao thông hào. Tôi xuống hào thì nó mới chịu ngồi yên. Sinh nghi, tôi đi dọc giao thông hào, đến các vọng gác nói với anh em: Gác cẩn thận, hình như con Kh’mau phát hiện được gì. Cả ba vọng gác đều nói là chẳng có gì bất thường. Đi hết một vòng, tôi dẫn Kh’mau về định ngủ tiếp, nó không chịu cứ lôi tôi ra khỏi giường. Tôi đành ra vọng gác của tiểu đội gác thay cho anh em tới sáng. Kì lạ, nếu tôi ngồi ở thông hào thì Kh’mau yên tâm ngồi bên cạnh, chỉ thỉnh thoảng vễnh tai nghe ngóng. Tôi mà bước lên khỏi thông hào là nó bồn chồn, không yên. Nói điều này với Hưng ở vọng gác tiểu đội một, Hưng cười: Chắc con Kh’mau sợ bởi mấy trận tập kích vừa rồi. Tôi im lặng nhưng trong lòng vẫn hoài nghi. Bởi mọi người có thể không tin Kh’mau nhưng tôi thì khác. Nó chưa bao giờ báo tin sai, phải có gì bất thường nó mới vậy.
Mũi nó khịt liên hồi, hai chân trước dậm mạnh vào bụi cây. Con chồn lao ra khỏi bụi cây vụt chạy. Một cuộc rượt đuổi ngoạn mục trước mắt chúng tôi. Kh’mau giờ đây đã là một chó săn trưởng thành, khỏe và nhiều kinh nghiệm, con chồn khó mà thoát khỏi nó. Bỗng một tiếng nổ lớn kèm theo bụi đất tung lên phía trước. Theo phản xạ toàn đội hình đã lăn sang hai bên đường. Một phút yên lặng trôi qua, bọn tôi nhận ra ngay không phải địch phục kích mà là mìn. Một ánh chớp lóe lên trong đầu. Tôi kêu lên Kh’mau và lao tới, bất chấp tiếng đồng đội phía sau cảnh báo: Dừng lại! Mìn! Quả mìn KP2 oan nghiệt đã băm nát người Kh’mau. Một phút say mồi, linh giác của nó đã đi vắng. Tôi ôm xác Kh’mau, toàn thân nó bê bết máu. Nước mắt tôi trào ra khi vuốt mặt cho nó.
Chúng tôi mang Kh’mau về, bọc nó trong cái áo của tôi, rồi chôn nó phía sau nhà tiểu đội, nơi nó thường nằm sưởi nắng. Mấy anh em trong tiểu đội còn khiêng về một tảng đá to để làm bia cho nó. Tôi mất một tuần để khắc lên bia mộ nó: Nơi yên nghỉ của Kh’mau - Chú chó trung thành và dũng cảm 7.7.1982 - bằng cả hai thứ chữ Việt và Kh’mer.
Đầu năm tám ba, tôi rời làng về lại đơn vị. Giã từ K’ro Lapia, ngôi làng nghèo khó chơ vơ giữa rừng mà ấm áp tình người. Ở đây tôi đã có những người mẹ, người chị không là ruột thịt mà thương yêu đùm bọc tôi bằng cả tấm lòng. Họ chỉ là những người dân nghèo, chất phác, không được học hành. Yêu thương như một bản năng vốn có của người mẹ dành cho những đứa con. Tôi cũng bỏ lại nơi đây tình yêu của Phờn - cô gái Kh’mer tuổi mười bảy đem lòng yêu tôi, một tình yêu đầu đời trong veo như sương sớm.
Ngày chia tay tôi hứa với mọi người sẽ trở lại, dù biết đời lính chiến không hứa trước được điều gì. Đơn vị tôi bây giờ không còn đóng ở Choam K’san nữa mà đã ra sát biên giới, dưới chân điểm cao 428. Tàn quân địch đã không yếu đi mà còn mạnh lên. Đồng đội tôi, lớp lính bảy tám chẳng còn mấy người. Họ giã từ chiến trận bằng nhiều cách khác nhau, một số bị thương được ra quân, một số đi học để phát triển, một số vĩnh viễn nằm lại ở ngầm “Xa Em”. Số còn lại đơn vị đã là cán bộ đại đội, tiểu đoàn. Tôi trở thành lính già nhất đơn vị, tiếp tục chiến trận với chức vụ chiến sĩ cho đến ngày ra quân.
Lời hứa năm xưa tôi đã không làm tròn. Giờ đây me Xường, Tà Đưa, Tà Đù đã thành người thiên cổ. Cô bé Phờn ngày nào chắc cũng đã con đàn cháu đống. Dù vậy, tất cả họ vẫn còn trong lòng tôi vẹn nguyên như ngày nào. Không chỉ họ, mỗi khi nhớ về Kro Lapia, hình bóng của Kh’mau lại hiện về. Trong lòng tôi vẫn luôn có một chỗ đặc biệt, nhiều thương yêu và trìu mến dành cho nó. Cái tảng đá mà chúng tôi khiêng về làm bia cho Kh’mau to lắm, không dễ gì mất dấu. Dòng chữ mà tôi khắc cũng khá sâu, chắc cũng chưa phai mờ. Nhưng gần bốn mươi năm vật đổi sao dời, phần mộ con người còn thất lạc huống chi mộ của một con chó. Cái ước vọng về thăm lại Kro Lapia, thăm lại mộ Kh’mau cũng mờ dần theo năm tháng, theo tuổi tác chất chồng. Mà thôi! Thăm lại làm chi, xác thân Kh’mau cũng đã hòa vào lòng đất. Bốn mươi năm trôi qua, Kh’mau vẫn còn trong lòng tôi và đồng đội.
Tháng 12 năm 2018
T.N.P