Hành trình đi tìm hồn nhiên ánh lửa...
QUANG ĐÌNH
(Một cách tiếp cận tập thơ Chân trời của Nguyễn Minh Hùng)
2. Chân trời là tập thơ không dày nhưng ấn tượng. Cái nhan đề tập sách, cái khái niệm tưởng như không thể có thật ấy, ngay từ trang thơ đầu tiên đã được “định nghĩa” một cách…trừu tượng (mà đôi khi, dùng cái trừu tượng này để giải thích cho một khái niệm trừu tượng khác lại dễ hình dung hơn là đi vào giải thích cụ thể):
Đó là nơi có thật trong tưởng tượng
những cơn mơ thường đến đấy để dừng chân
bốn mùa gặp nhau cùng nhau mưa nắng
thời gian chảy hết đường, ngày tháng đứng phân vân…
(Chân trời)
Được khơi mở bởi cái ý niệm như vậy nên Chân trời là nơi bung tỏa, và cũng là nơi hẹn về của những-suối-mơ. Mơ ngày, mơ đêm, mơ trong ngủ và mơ cả trong mơ…Những cơn mơ, những mộng tưởng, những ước muốn hằng thường để dẫn ta vào với cõi đẹp, cõi sống, cõi lặng yên... Lớp từ ngữ mơ, chiêm bao, lặng yên, lặng lẽ, im lặng, sông yên, chiều im, thinh không...xuất hiện với tần số cao.
Mơ được coi trước hết như là một phần của thức, của tỉnh. Mơ đã như một điểm tựa cho người: Có cơn mơ vỗ về anh không biết mệt (Chân trời), Cơn mơ lại kéo đến chối từ an lành giấc ngủ, Cơn mơ lại ra đi nhường chỗ cho giấc ngủ an lành/ anh bật dậy giữa dịu dàng sương sớm/ lo sợ chúng mình dẫm vào ngày/ với tay trắng cơn mơ…(Cơn mơ) Giấc mơ này nối vào giấc mơ kia nối cả vào sự thật (Thức dậy), Và điềm nhiên một ngày, thinh không lay gọi/ hai người bay trong thập thững tiếng chuông chùa…
Rồi mơ “nối cả vào sự thật”, nằm giữa sự thật: Mưa tạnh rồi/ đặc sánh một trời sao/ sông Ngân chảy qua ô cửa sổ/ anh thấy mình cháy xẹt lên như sao…(Cháy), Anh thấy mình như cây như sao/ hồn nhiên đâm chồi/ rồi băng đi mất tiêu (Lặng yên)…để thấy được tính thật ảo, được mất ở đời: Cứ mê mải đi tìm miền nắng ấm/ Để cơn mưa đẫm ướt cả cơn mơ (Chị ơi, hạt nắng…), Mơ thì thật đời hóa thành hư ảo (Chiều thứ…), Anh vẽ những điều anh tưởng/ Anh mơ những chuyện giấc mơ…, Anh suốt một đời phong cảnh/ Vỗ về giấc mơ chưa thành (Phong cảnh)…
Đọc nhiều sách lý giải về giấc mơ, sách của các chiêm tinh gia, sách của các nhà tâm lý, nhưng tôi vẫn tâm đắc ý niệm của S. Freud: “Lý giải các giấc mơ là con đường lớn của sự hiểu biết về cái vô thức, là cơ sở vững chắc nhất cho những nghiên cứu của chúng ta, và hơn bất cứ cách nào khác, chính việc nghiên cứu các giấc mơ sẽ làm cho các bạn thấy rõ giá trị của phân tâm học và sẽ giúp các bạn thực hành nó…”. Giấc mơ là nơi dồn chứa, thể hiện của những giải tỏa, những mặc cảm, cảm xúc và ham muốn tính dục của con người (Xin xem thêm- Freud đã thực sự nói gì, NXB Thế Giới, H.1998). Tôi không đem những điều trên để luận giải cho thơ của Nguyễn Minh Hùng, vì với anh, mơ được xem như là một thể thức của thi pháp để nói đến, bàn đến những vấn đề khác.
Phiêu bồng trong cõi mơ nên những câu hỏi xuất hiện nhiều trong thơ Nguyễn Minh Hùng cũng là một lẽ. Hỏi không phải để trả lời mà để đối diện với nghi vấn, đúng hơn, chung sống với những hoài nghi một cách xác tín nhất: Có chăng ráng chiều, còn đâu phù vân, vương chi tơ trời?, Mây ngàn năm mây lang thang/ tôi tìm bến nào mây đỗ? (Mây), Con đường dẫn đến đâu tìm gì ở đâu?/ phía chân trời mấy cánh thiên di lả đi trong chiều tắt/ phía em gió lùa khăn rơi không buồn nhặt/ phía mùa thu màu nắng chót vội vàng đi…(Thức dậy), Ai thắp lên ngọn lửa cuối đông này? (Trái tim chim yến), Còn biết ngoài cây lá nói gì hát gì? Kìa ai nhấp nháy ngoài song nhắc về lời thề hứa? (Mệt rồi)…
Tác giả, và nhiều người khác nữa, có lẽ đều ý thức về phận người mong manh nhưng ý thức để sống-với-phận-người-mong-manh lại là câu chuyện khác. Cái ý thức nhập thể mà vẫn nhận chân cái bản lai diện mục của mình, ý thức ấy đôi khi buốt rát nhưng dễ tỉnh táo trước những cơn lốc đại ngàn. Chân dung con người tỉnh thức, vì thế dẫu đứng sau lớp ngôn ngữ mờ sương nhưng vẫn in dấu: Anh chạy giữa tháng-năm-con-người nôn nao cơn khát/ mưa thủng thỉnh rơi sông suối nhọc lòng (Thức dậy), Anh trong mưa trong rộng/ đứng ngồi chông chênh (Cháy), Ai đang dắt anh đi? Rất nhiều tay người nắm nhầm nhau, nắm chặt (Lửa rừng)…
Con người biết bước qua cái ồn ã để sống với lặng yên, để đối diện mắt nhìn mắt, bóng in bóng, lời vọng lời…Nên mới xuất hiện hình ảnh của đứa bé từ người lớn chạy ùa ra để Nhặt ký ức nở lấm tấm giêng hai trên cỏ/ nhặt tháng năm đánh rơi tuổi gương trăng vỡ/ nhặt giọt sương làm kính vọng trời xa…(Bên khung cửa), Đến bây giờ, tàu bay thật, tôi đã đi/ nhưng vẫn không mê bằng tàu-bay-giấy/ mỗi lần cậu bé phóng con tàu không tưởng ấy/ tôi với ước mơ mình/ theo cánh giấy/ bay lên (Tàu bay giấy), Áo quần ướt ẩm tôi đi từ nước lên/ những đứa trẻ vô tư nô đùa trên ký ức mai này/ những cô gái vô tình gánh lên từng gánh kỷ niệm/ tiếng cười vang vang…(Chia tay dòng sông)
Trong Chân trời, xuất hiện một số “chân dung văn học - lịch sử” theo cách tái hiện ẩn dụ. Đó là những bài thơ viết về những nét mong manh, những thân phận buồn trong cái nhìn tỉnh thức: Mỵ Nương, Nguyễn Du, Văn Cao, Desdemona.
Điều đặc biệt đáng nói là trong tất cả “ảo mộng” đó, có những ách tắc cuộc đời nhưng không phải là những bế tắc. Tiếng nói với đêm và cũng là tiếng nói tự tình:
- Rồi xin những đêm về, đêm ơi, đừng ngủ hết
Trăng sẽ lặn ngay
Trước mỗi giấc vô tình
(Ánh trăng)
Tiếng nói trong niềm tuyệt vọng vẫn nhen nhóm một niềm tin:
- Và…
Khi anh không còn thức dậy được nữa
Hãy lay động những ôm ấp trong anh còn biết trở mình...
(Thức dậy)
Tiếng nói khát vọng cho một sự ý thức của riêng mình và tiếng nói mãi đi kiếm tìm những quy luật chung của con người, của cuộc đời:
- Cả đời khổ vì đi tìm hồn nhiên ánh lửa
Đế cháy sém trái tim treo một thuở phía thông ngàn
(Lửa rừng)
- Ngửa mặt cao xanh cùng khát
Thâm nghiêm rừng sao phai nhạt
Nhớ-quên mưa sẽ an bài
(Mưa rừng)
- Khi ta tìm sưởi ấm nơi băng giá
Để tự cháy lên nỗi cô đơn sáng suốt riêng mình
(Lửa)
Với khát vọng được giữ lại, trả lại vẹn nguyên, đi tìm hồn nhiên…, Chân trời tạo ra những điểm tựa mơ hồ mà vĩnh viễn là bờ cỏ, suối sông, cố hương, cơn mưa, trời quê cao rộng, heo may, phù vân...với một thái độ thành thật: xin, mong, quay về, hối tiếc, tạ lỗi...
Chân trời còn gợi ám ảnh bởi những hình ảnh thơ, câu thơ tạo cảm giác nhanh, tuy không nhiều, đôi khi nhanh như là để nhận ra nét bình yên của thời-gian-sống chứ không phải thời-gian-trôi: cháy xẹt, băng đi mất hút, lao trong rét, băng đi mất tiêu, chạy giữa tháng năm con người, lụt thời gian lên nhanh, hoàng hôn sắp tro than và đêm cười đen nhánh, rồi một ngày không anh em ơi đừng đến/ cơn mơ không thể nào dỗ được em đâu/ cầu vồng gãy rơi mỗi phương mỗi sắc,...
Ở đây, như bao nhiêu kẻ viễn du khác, đã xuất hiện kiểu thời gian tâm lý nhưng lại được “đo bằng kích cỡ khác”:
- Ngày và thế kỷ dài bằng nhau
duy một ban chiều được đo bằng kích thước khác
kích-cỡ-một-em bé vô cùng lớn vô cùng
thế giới vô tình vô cùng
(Cơn mưa)
- Đêm bằng mười năm
Năm bằng một ngày
Ngày tựa một đời…
(Những gốc rạ)
- Ở đây có một chiều là tất cả
tất cả cùng về
tất cả vội đi ngay…
Không phải là hối tiếc thời gian vụt trôi mà là ý thức giây phút tồn tại, đúng hơn, ý thức sự tồn tại.
Thơ Nguyễn Minh Hùng có một số bài viết về lửa: Lửa, Lửa rừng, Cháy… ; ngay cả thứ không phải lửa, chỉ là ánh sáng, cũng biến thành một loại lửa có khả năng nhen nhóm: hạt nắng, lửa của bếp, lửa của ánh sao băng, sao xa, lửa của đom đóm, lửa từ một đám cháy, lửa của hơi ấm đâu đâu trên vách núi,…. Nhưng gam màu chủ đạo, mang tính biểu tượng vẫn là Mây-Mưa-Nước-Dòng sông. Mây bay, mây trôi, mây lang thang, mây đùn….Mưa tự mười phương, mưa trơn, mưa tranh, mưa rừng, mưa nôn nao. Giọt nước mắt, giọt sương, khóc, nước lũ, lũ lụt, ngụp lặn, lặn xuống. Sông yên lặng, sông trong veo, sông mây…những biểu tượng vốn mềm mại, nhẹ nhàng nhưng bền bỉ.
Hệ thống ngắt dòng, dấu câu với không dấu, dấu hỏi, dấu hỏi đi với dấu than, dấu chấm lửng…tạo sự phân vân. Khổ thơ, câu thơ có nhiều từ láy, phép điệp, sử dụng ngôn ngữ chủ đạo ở hệ thanh bằng và đặc biệt là cách đảo ngữ nhiều ấn tượng: ngổn ngang hoa/ ngổn ngang hương/ ngổn ngang những lời chia buồn/hình như ông đang cười…(Văn Cao), Mùa đi mùa đi bằng nhịp thở/ Chíp chiu lời chim mây chiều vỡ/ Chắt chiu sợi cỏ mang về lót ổ một tình yêu (Trái tim chim yến), Mưa rừng đi trong không ai/ Mưa rừng không ai đi trong/ Đi trong mưa rừng không ai (Mưa rừng); giàu tính nhạc dù không cố ý lắm về nhạc tính: Gì ấm bằng lửa mùa đông/ gì khô như rạ trên đồng, Thu vàng phương bắc giờ chắc lạnh/ Hồng Hạc heo may cổ có quàng khăn?/ Buổi chiều đợi là buổi chiều rét nhất/ Cánh di trú dạt phía nào phía ấy đắp dùm chăn…
Trong hệ thống từ ngữ của Chân trời chợt bắt gặp cái khí chất Quảng
- Để mây và tôi cùng vấp té nẻo thông ngàn (Mây)
- Nơi giấc mơ đầu tiên có thiệt (Ánh trăng)
- Nằm trên chỗ mẹ anh chôn vội nhúm nhau (Cơn mơ)
- mưa thủng thỉnh rơi sông suối nhọc lòng (Thức dậy)
- mưa bay rát rạt một phương chiều (Chị ơi, hạt nắng…)
- anh ấy đi xa miết (Chân dung)
- chiếc lá cuối ngày thong thả rớt (Chiều cuối đông)
Chân trời không có bài thơ, câu thơ dễ dãi; ở đó có nhiều câu thơ đẹp, gợi cảm, cấu trúc lạ, một số bài thơ có kiểu sắp xếp “khó hiểu” nhưng không thể không cảm được:
- kìa em thanh xuân cùng anh lao ra cánh đồng đang mùa gặt hái
tay em liềm trăng vai anh gánh trĩu những sao trời…(Cơn mơ)
- Cánh hồng chân mây đi miết không về
Kỉ niệm lông vũ ngời đáy nước
Dáng mây đùn thiếu phụ sơn khê (Hồng Hạc)
- Khi bóng tối và nỗi buồn hóa đất
Thảng thốt quê nhà gieo hạt nắng xuyên qua (Chị ơi, hạt nắng…)
- Chưa bao giờ là nụ cười
(nếu cười còn vui tiếng người)
tóc xanh tiếc rụng chết trắng
nguyên trạng hiện trường bể dâu (Hương)
Ở vùng biển miền Trung có loài chim yến huyết- loài chim quý cho loại yến màu đỏ như máu. Cái cách người làm thơ cơ hồ như loài chim yến xây tổ của mình. Bài thơ Trái tim chim yến, theo tôi là một kiểu tuyên ngôn kín đáo về thơ: Không nằm yên ở yên/ trái tim treo trên sóng/ buổi sinh nở gọi về xây tổ trùng dương/…khi chiếc trứng tròn vo quặn lòng cất tiếng/ Trái xuân chào đời, chỉ nghe lời ca hát trái tim thôi!…Nơi Chân trời ấy, đọc xong, tôi thoảng nghe bên mình lời ca hát trái tim, hát trên hành trình mải miết đi tìm hồn nhiên ánh lửa!...
Ngày 03 tháng 01 năm 2010
N.Đ.V