Chuyện về hai bài thơ chữ Hán dịp Tất niên và Tết Nguyên đán của Phan Khôi - Phan Nam Sinh
Năm 1908 tại Quảng Nam và các tỉnh Trung Kỳ nổ ra phong trào “kháng thuế cự sưu” mà dân quen gọi là phong trào “xin xâu”. Vì đó mà Phan Khôi bị bắt tại Hà Nội, di lý về Quảng Nam, bị chính quyền thực dân kêu án ba năm tù, giam tại nhà lao Hội An cùng các cụ Trần Cao Vân, Mai Dị, Huỳnh Thúc Kháng; mãi tới năm 1911 mới được ra tù. Non một năm sau, vào dịp Tết Nhâm Tý (1912), cùng với niềm vui gia đình sum họp và niềm hứng khởi của người tù vừa được trả tự do, Phan Khôi đã làm bài thơ chữ Hán đầy tự tin.
Theo chính Phan Khôi kể lại trên báo Tràng An, số 84, ngày 17 tháng 12 năm 1935 thì bài thơ được viết vào một tờ hoa tiên, gấp vào trong một quyển sách, sau cho ông cử Mai Dị là bạn của ông mượn. Lúc ông Cử bị xét nhà, bài thơ rơi vào tay mấy tên quan. Mấy tên quan này dựa vào hai chữ “đông phong” có trong bài thơ và mấy chữ “Châu Nam - Phan Thị” (người họ Phan, tên Châu Nam) là tự của Phan Khôi ở phần lạc khoản, định ghép Phan Khôi vào tội mưu đồ làm Phan Bội Châu ở phương Nam để cổ súy cho phong trào Đông du. Công sứ Quảng Nam lúc bấy giờ là Lesterlin do không tin mấy ông quan này, vả lại cũng không có bằng chứng gì rõ ràng nên đã lệnh cho bọn họ thôi không truy cứu vụ này nữa. Thế là Phan Khôi may nhờ có Lesterlin mà thoát nạn. Tuy vậy do phải chịu cái ơn hờ của viên công sứ mà Phan Khôi đã phải chuốc lấy những hồ nghi dài dài từ không ít đồng bào của mình.
Bài thơ được đăng lần đầu trên báo Tràng An, số 84, ngày 17 tháng 12 năm 1935. Một năm sau lại được đăng trên tờ Điện Tín, số Xuân Bính Tý (1936). Cả hai lần đều không có nguyên văn chữ Hán, không cả dịch nghĩa, dịch thơ mà chỉ có phần phiên âm Hán Việt.
Đầu năm 2009, với sự giúp đỡ của Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, nhà nghiên cứu - phê bình Lại Nguyên Ân trong bài “Suýt chuốc họa vì... thơ Tết” đã đăng lại bài thơ này trên “Tuổi Trẻ Cười” số Xuân Kỷ Sửu.
Tiếc là ở phần chữ Hán, dịch nghĩa và dịch thơ đăng trên “Tuổi trẻ Cười” lần đó còn có một hai sai sót nhỏ. Nay tôi xin đăng lại nguyên văn, dịch nghĩa và dịch thơ như dưới đây.
Nguyên văn:
壬 子 開 筆
春 日 無 花 亦 復 佳
庭 前 尚 有 桂 新 栽
凌 霄 奇 氣 無 人 識
曾 共 東 風 一 夜 來
Phiên âm:
Nhâm Tý khai bút
Xuân nhật vô hoa diệc phục giai
Đình tiền thượng hữu quế tân tài
Lăng tiêu kỳ khí vô nhân thức
Tằng cộng đông phong nhất dạ lai
Dịch nghĩa:
Ngày xuân không có hoa mà vẫn đẹp
Trước sân có mấy cây quế mới trồng
Khí lạ ngút trời mà không người
nào biết
Theo với gió xuân cùng về trong đêm
Dịch thơ:
Đường luật
Xuân đến không hoa cũng tốt thay
Trước sân trồng mới quế vài cây
Ngút trời khí lạ không người biết
Theo gió xuân về kịp tối nay
Lục bát
Không hoa cũng đẹp ngày xuân
Quế non mấy gốc trước sân mới trồng
Ai hay hương lạ một vùng
Nửa đêm vấn vít về cùng gió xuân
Năm 1946 Phan Khôi từ quê làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam ra Hà Nội theo lời mời của Bộ Nội vụ, đến ngày toàn quốc kháng chiến thì theo đoàn văn hóa cứu quốc lên chiến khu Việt Bắc, làm việc trong Ban Nghiên cứu Ngôn ngữ Văn tự thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam.
Bốn năm sau, vào dịp cuối năm năm 1950, Phan Khôi nhận được thư nhà do con gái ông viết thay mẹ từ làng Trung Phước thuộc huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, nơi gia đình ông đang tản cư. Thư nói cả nhà bình yên nhưng vì phải chạy tản cư, không làm gì ra tiền, thiếu ăn nên phải bán thêm mấy sào ruộng. Cái nhà ngang bị giặc phá từ năm 1947 sau khi chúng tấn công Gò Nổi, giờ nhận thư ông mới biết. Ông buồn quá. Thế là mất hết cả. Vợ con chạy giặc tứ tán, biết ngày nào còn, ngày nào mất? Tấm thân già chỉ vì đuổi theo cái chí của cuộc đời mà một mình lên tận rừng xanh, núi đỏ. Nhà cửa, vườn tược của ông cha để lại thì giặc đã phá cả, ruộng đất thì mỗi ngày một teo dần, theo cái túng thiếu của vợ con mà rơi vào tay kẻ khác. Trong tâm trạng buồn phiền vì phải sống xa gia đình, giao thừa năm ấy Phan Khôi đã làm một bài thơ chữ Hán. Đâu như là bài thơ đã được nhà thơ Thế Lữ dịch nghĩa, sau này được nhà phê bình Thiếu Sơn đưa vào “Bài học Phan Khôi”, trong cuốn “Những văn nhân chính khách một thời”, xuất bản tại Sài Gòn trước năm 1975. Nay tôi xin ghi lại nguyên văn chữ Hán, phiên âm Hán Việt và dịch ra thơ lục bát như dưới đây. Tên bài thơ là do người viết đặt và phần dịch nghĩa là của nhà thơ Thế Lữ.
Nguyên văn:
除 夕
獨 夜 過 除 夕
更 無 燈 可 身
重 衾 蓋 衰 腐
闪 夢 著 酸 辛
有 爱 甘 生 別
無 贏 任 食 貧
聞 鷄 恨 起 坐
抗 戰 四 逢 春
Phiên âm:
Trừ tịch
Độc dạ quá trừ tịch
Cánh vô đăng khả thân
Trùng khâm cái suy hủ
Thiểm mộng trước toan tân
Hữu ái cam sinh biệt
Vô doanh nhiệm thực bần
Văn kê hận khởi tọa
Kháng chiến tứ phùng xuân
Dịch nghĩa:
Một mình đêm giao thừa
Đến ngọn đèn làm bạn cũng
không có
Đắp lên thân suy tàn một tấm
mền kép
Chợp mắt mơ là nhấm miệng
chua cay
Có vợ con mà cam sống chia cách
Không sinh kế phải ăn nhờ
Nghe gà gáy mừng vùng dậy
Kháng chiến bốn xuân rồi
Dịch thơ:
Giao thừa
Giao thừa một bóng một hình
Ngọn đèn làm bạn bên mình
cũng không
Chăn sui (1) đắp tấm thân còm
Nằm suông gặp mộng miệng còn
cay tê
Hữu tình cam sống xa quê
Túi không nếm vị hoắc lê (2)
bấy chày
Giận nghe gà gáy ngồi ngay
Tỉnh ra kháng chiến xuân rày
bốn xuân.
Có thể thấy bài thơ là một phần tâm trạng của Phan Khôi trong những giây phút thiêng liêng từ năm cũ sang năm mới sau bốn năm đi kháng chiến trên Việt Bắc. Và, rất có thể đó cũng là tâm trạng của không ít nhân sĩ, văn nghệ sĩ tại Việt Bắc trong mấy năm đầu của cuộc kháng chiến thần thánh đầy cam go, thử thách của dân tộc.
(1) Đúng ra phải là “chăn kép” hay “mền kép” nhưng nghe nói người Việt Bắc lúc ấy thường đắp chăn sui (...chăn sui đắp cùng - Tố Hữu) nên dịch thoát là “chăn sui”.
(2) Lấy ý từ hai câu thơ của Nguyễn Gia Thiều trong “Cung oán ngâm khúc”: “Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm. Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon” để chỉ bữa ăn thanh đạm.
P.N.S