Bia Chùa Cầu - trùng tu Lai Viễn kiều kí: “Nhất khê” hay “Tiểu khê” hay là Phi “tiểu” Phi “nhất” - Nguyễn Dị Cổ
1. Nhân đọc “Bài kí trùng tu “Lai Viễn kiều”” trong sách Quảng Nam và những vấn đề sử học (2006) của nhà nghiên cứu Nguyễn Sinh Duy, thấy ông “phân vân” “tại sao cụ Hồ Ngận lại ghi là “nhất khê” thay vì “tiểu khê” như Dương Đức Nhự đã chép?” [tr.182] và đi đến đồng ý “2 chữ “nhất khê” của cụ Hồ Ngận có thể là thích đáng”. Rốt cuộc trên nguyên bản văn bia chùa Cầu có phải là “nhất khê” hay “tiểu khê” hay là không phải cả 2 từ này?
2. Chùa Cầu trở thành biểu trưng của phố cổ Hội An và là biểu tượng được nhiều người trên thế giới biết đến. Cây cầu này vốn do người Nhật Bản xây dựng muộn nhất cũng từ đầu thế kỷ thứ XVII và trải qua nhiều lần trùng tu. Mỗi lần trùng tu như vậy đều có văn tự kỷ niệm lưu trên xà nóc hoặc bia đá tại di tích. Trong số văn bia này có một văn bia dựng năm 1817 là văn bia tiêu biểu nhất và thường hay gọi là bia chùa Cầu mà tiêu đề chữ Hán của nó là Trùng tu Lai Viễn kiều kí do Đốc học dinh trực lệ Quảng Nam là Khê Đình Bá Đinh Tường soạn.
3. Nguyên nhân của sự không thống nhất về văn bản là do tấm bia này đã cùng người dân địa phương hứng chịu chiến tranh nên phải mang những thương tích trên mình, làm cho vài chỗ bị mất chữ không thể đọc được mà phải dựa vào suy đoán. Nguyễn Sinh Duy viết: “rà soát lại hiện trạng văn khắc ngày nay, chỗ chữ “tiểu” ấy đã bị một lỗ đạn thời chiến tranh xoi thủng và được ai đó dùng xi măng thô trám vào. Nghĩa là, trước khi bị mũi đạn, chữ “tiểu” ấy vẫn còn hiện diện, do đó Dương Đức Nhự mới chép là “tiểu khê”. Thế nhưng bản chép của Hồ Ngận lại ghi chỗ lỗ đạn ấy là “nhất khê”” [tr.182].
4. Thực ra, trên nguyên bản văn bia này không phải là “nhất khê ” cũng không phải là “tiểu khê ” mà chính là “khê yên ”.
Mở đầu tập thủ bút của Trương Đồng Hiệp1 (1857 - 1926), cử nhân khoa Giáp Ngọ (Thành Thái thứ 6-1894), là bài Trùng tu Lai Viễn kiều kí. Trong văn bản này, ông đã chép rõ ràng 2 chữ “khê yên”.
Sau đó, vào thập niên 40 của thế kỷ XX, E.F.E.O tiến hành in rập văn bia này với 3 ký hiệu thác bản: N0 259, N0 8360, N0 19323, hiện đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và được in thác bản trong các tập 1, 9, 20 của bộ Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm (gồm 22 tập xuất bản từ năm 2006 đến năm 2010) kèm theo tập 1, 5 của bộ Thư mục thác bản văn khắc Hán Nôm Việt Nam (đã xuất bản 8 tập từ năm 2007 đến năm 2011)... Cả 3 thác bản văn bia này đều thể hiện nét chữ rõ ràng, chỉ hơi mờ một số chữ ở phía bên dưới gần chân bia, và hiển hiện 2 chữ “khê yên”.
Đến năm 1989, Ngô Thế Long đã phiên âm, dịch nghĩa trọn vẹn bài văn bia này trong bài viết “Hai tấm bia cổ nói về người Nhật trên đất Quảng Nam - Đà Nẵng” đăng trên Tạp chí Hán Nôm (số 2/1989). Theo như bài viết, ông sử dụng thác bản N0 19323 để phiên âm, dịch nghĩa. Và, trong phần phiên âm cũng thể hiện đúng 2 chữ “khê yên” từ thác bản.
Yên là trợ từ. Theo Văn pháp chữ Hán của Phạm Tất Đắc, trợ từ “yên” ở đây có chức năng “làm hộ đậu, đặt ở vế trên của câu nói chỉ ý giả thiết, còn ý kết luận thì đặt ở vế câu dưới” [tr.1018]. Nội dung câu đầu tiên trong văn bia này là: “Minh Hương Hội An phố, giới ư Cẩm Phô hữu khê yên, khê hữu kiều, cổ dã = Làng Minh Hương phố Hội An, giáp giới xã Cẩm Phô có dòng khe, khe có cầu, [cầu ấy] đã lâu”.
1 Tập thủ bút này là do hậu duệ của Trương Đồng Hiệp photo cho người viết và các vị này có khẳng định trong sách Thành phố cổ Hội An đất và người (2014). Song, người viết chưa kịp xác thực về mặt văn bản học, cốt yếu chỉ mới quan tâm đến 2 chữ “khê yên” được sao chép trong văn bản.
N.D.C