Hồn đá

Minh họa VĂN TIN
1. Thạch luôn tin rằng đá có hồn phách. Nơi Thạch sinh ra là đá, giữa trập trùng núi non. Ở làng này, ai không chơi cùng đá, kẻ ấy khác người. Ai không ngủ cùng đá, kẻ ấy lập dị. Từ thuở nằm nôi, tiếng đẽo đục đá khắc sâu vào tâm trí Thạch hơn cả lời ru của mẹ. Tuổi thơ của Thạch là những viên đá to nhỏ đủ kích thước, đủ màu sắc. Ngày nắng, đá nóng rát bàn chân; ngày mưa, nước rơi lộp độp trên mình đá, hòa cùng tiếng máy cắt. Gió rít qua những khe đá vừa tạc. Tiếng nghệ nhân đẽo đục, dẫu là từng chi tiết nhỏ nhất cũng len lỏi sâu vào tận những giấc mơ của Thạch.
Trong mơ, chưa bao giờ Thạch thấy cánh cò chao nghiêng hay những vạt lúa chín vàng rạp mình trong gió. Nghĩ về quê hương, là Thạch nghĩ đến đá.
Vậy mà, đã mười mấy năm kể từ ngày rời làng, Thạch chưa một lần trở về. Những cuộc điện thoại thăm hỏi đều sau bảy giờ tối. Giờ ấy, thợ đã về hết. Những âm thanh của đá không có cơ hội vẳng đến tai Thạch. Chỉ có như vậy, anh mới không bị kéo ngược về quá khứ. Bên gian nhà nhỏ, khoảng sân rộng, những phiến đá lặng lẽ phơi mình giữa nắng mưa, chờ đợi. Chúng không biết mình sẽ biến thành hình thù gì khi những đôi bàn tay chạm vào.
Có người thô bạo. Có kẻ nhẹ tay. Dẫu là nghệ nhân lão luyện hay những thiếu niên lần đầu cầm đục, ai rồi cũng khiến đá rớm những vết thương. Có lẽ vì thế, đá biết phản kháng.
Cơn dông chiều bất ngờ từ phía nam tràn về. Gió gào thét. Mây vần vũ. Những đụn mây xám ngoét lũ lượt kéo đến. Mây tràn qua núi. Mây băng ngang Ngũ Hành Sơn sừng sững và bao trùm cả làng đá.
Thạch đứng bên khối đá, tay tỉ mẩn tạo hình những ngón chân thuôn dài ẩn sau lớp y hờ hững. Thằng Bàn chắp miệng: “Sắp dông lớn rồi, nghỉ thôi anh hai”. Nó quay nhìn Thạch. Anh đang dán chặt đôi mắt vào khối đá. Một nhát khoét trượt mạnh. Mũi ngô trên tay sượt lên mình đá. Gió tạt qua, khối đá rùng mình.
Thạch bất chợt ngước lên nhìn trời. Phía sau gọng kính bảo hộ, anh thấy những cơn sấm gầm gừ lẫn giữa khối mây xám. Anh nói với thằng Bàn:
- Ráng chút nữa, gần xong rồi. Mi vô nhà, lấy sẵn tấm bạt, dây thừng với mấy tấm xốp.
- Mai làm tiếp đi anh hai, có ráng cũng không kịp đâu. Dông chắc lớn lắm.
Mặc kệ thằng Bàn phản đối, Thạch vẫn chăm chú với mũi đục. Công đoạn khoét các khe lượn tròn giữa từng ngón chân đã gần xong. Anh chỉ cần hoàn thành nốt những phần rãnh cong và móng chân, vậy là có thể nghỉ.
Gió cuồn cuộn thổi tung bụi đá. Cả khoảng sân mờ mịt. Những tán lá ướp màu bụi, ngả nghiêng. Từng chùm hoa mận rụng xuống, theo gió tả tơi. Thạch đứng giữa sân, cố chấp y hệt ông Bảy.
Nhiều năm về trước, người đàn ông có bộ râu điểm bạc, dẫu nắng cháy hay mưa lớn, một khi đã tập trung vào việc, ông sẽ không dừng lại nửa chừng. Dòng máu của ông dường như hòa quyện với từng hơi thở của đá. Thạch cũng vậy. Thằng Bàn cũng vậy. Cả tuổi thơ của họ gắn liền với những viên đá, chơi đùa cùng đá, lớn lên cùng đá. Chúng được ông Bảy tỉ tê kể về lịch sử làng nghề, về truyền thống gia đình, và những khát khao đưa nghề đá quê nhà vươn xa.
Ngày đầu tiên cầm dụng cụ trên tay và bắt đầu chạm vào khối đá, cả Thạch và Bàn như rơi vào một thế giới khác. Ở đó, chỉ có tiếng đá rầm rì và những đường nét tinh xảo của một pho tượng còn dang dở. Thạch đã từng trầm tư hơn nửa ngày vì không biết cách chỉnh sửa đôi mắt của mẹ Maria. Anh không ăn, không uống. Những mũi ve nhọn, mũi bán nguyệt, con chạm nhỏ,.... Thạch đều dùng đủ. Nhưng cái thần trong đôi mắt vẫn không toát lên được như ý muốn. Chỉ có thằng Bàn, chỉ mất chưa đến ba giờ, nó đã có thể hoàn thiện một con mắt đẹp đúng nghĩa.
Lần này cũng vậy, cả hai cùng bắt tay vào làm. Thằng Bàn nhận tạc đôi mắt. Thạch lo hoàn thiện hai bàn chân. Gần một ngày trôi qua, con mắt bên trái đã hoàn thiện. Con mắt bên phải đã qua công đoạn khoét sâu để tạo đường bao hốc mắt. Phần mí mắt trên, dưới và bầu mắt bo tròn cũng đã tạc xong. Chỉ còn đồng tử và khoét tròn tròng mắt với độ cong thích hợp, thằng Bàn sẽ làm nhanh thôi. Trong sáng mai, những ánh nhìn từ bi và đầy bao dung của Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ ẩn hiện đằng sau đôi mắt ấy.
Còn đôi bàn chân của ngài, Thạch không chắc có thể hoàn thiện kịp lúc. Vì vậy, anh phải tập trung bằng mọi giá. Chỉ là một cơn dông. Chỉ vài đợt sấm rền. Thạch tin mình có thể hoàn thiện những ngón chân trái trong hôm nay.
Dông mỗi lúc một gần. Thằng Bàn từ trong nhà chạy ra, tay trái ôm tấm bạt lớn, tay phải kéo theo một cuộn dây thừng. Gió quật mạnh. Một tiếng “rắc” vang lên. Thạch không nghe thấy.
Thằng Bàn giật mình, giương mắt nhìn nhánh cây quần quật chao nghiêng trong gió. Thả rơi tấm bạt và sợi dây thừng, thằng Bàn lao đến. Nắm được cánh tay của Thạch, nó kéo mạnh. Trong gió, tiếng đá như đang rền rĩ. Những bức tượng ngấu nghiến ánh nhìn vào hai anh em đang chới với giữa cơn dông. Nhánh cây vừa rơi xuống, chỉ Thạch tránh được. Thằng Bàn ngã sõng soài, thái dương đập mạnh lên khuôn đá chỉ vừa tạo khối nằm bên cạnh tượng Quán Thế Âm.
Mưa lộp độp những giọt đầu tiên trong trận gió mạnh vừa cuốn qua. Mưa rơi trên mình đá. Mưa rớt xuống sân gạch. Mưa nhòe nhoẹt ướt từng chiếc lá mận vừa buông mình khỏi cành. Và mưa, loang lổ một màu đỏ thẫm.
Thạch ngồi thụp giữa cơn dông. Anh cố lết đến bên thằng Bàn. Nước mưa mặn chát. Tiếng hét của cha anh vang lên phía sau lưng. Ông từ trong nhà chạy ra, đôi mắt hớt hãi đục ngầu. Ông sờ khắp khuôn mặt thằng Bàn. Ông đưa tay lên mũi. Ông áp tai mình vào lồng ngực vạm vỡ của đứa con trai đang ướt sũng dưới mưa.
Thạch sững lại. Anh ném ánh mắt mình vào màn mưa trắng xóa. Ánh nhìn vướng phải ấn đường đang run rẩy của pho tượng Quán Thế Âm vừa tạc xong một con mắt.
Thạch quên mất, mới vừa lúc nãy, đá rùng mình sau một nhát trượt. Vậy mà anh vẫn cố khoét tạc. Phải chăng mọi phiến đá đều biết giận dữ?
Thằng Bàn lớn lên với đá, giờ cũng nằm lại vì đá.
Thạch đứng bật dậy. Mặc kệ dông gió thét gào, anh bỏ chạy thật nhanh, thật vội. Mưa quất vào mặt. Mưa ràn rạt những cơn nhức nhối ngấm vào da thịt. Mưa giằng xé lồng ngực đang dồn dập đau và hối hận. “Phải chi nghe lời thằng Bàn nghỉ sớm”, “phải chi đừng làm ráng”, “phải chi thằng Bàn đừng cố kéo mình ra”,… hàng nghìn câu nói bủa vây Thạch đang co ro cuộn mình giữa thênh thang đồng gió.
Một hồi chuông vọng lại từ chùa Quán Thế Âm bên đường Sư Vạn Hạnh. Trong tiếng chuông, Thạch thấy mẹ hiền Quán Thế Âm đang nhìn mình chỉ với một con mắt. Nửa bên kia nhắm lại. Một giọt lệ rớt xuống, chạm lên đầu nhành dương liễu.
2. Cuộc gọi của gia đình từ chiều hôm qua đã khiến Thạch nhớ lại chuyện cũ. Ông Bảy đang đau nặng. Ông muốn Thạch trở về. Dẫu Thạch không kế thừa truyền thống của gia đình thì ông cũng muốn được nhìn thấy bức tượng Quán Thế Âm hoàn thiện trước khi nhắm mắt xuôi tay.
Từ ngày thằng Bàn lịm đi giữa cơn dông chiều bất ngờ, bức tượng dang dở được dời vào kho tối. Không ai nhắc đến. Có lẽ mọi người đã quên. Chỉ có ông và Thạch vẫn tự dằn vặt mình sau hàng nghìn ẩn ức.
Biết bao khối đá đã đến tay khách hàng. Vậy mà, qua mấy mùa mưa nắng, bức tượng Quán Thế Âm năm ấy vẫn co ro nằm lại. Những đêm trăng cao, ông Bảy lọm khọm ra vườn. Ông ngồi đốt thuốc trên chiếc ghế đá mà ngày xưa Thạch, Bàn thường cùng chơi oẳn tù tì. Từng vòng khói thuốc bay lên, phảng phất nụ cười của hai đứa con trai.
Năm đó, ông đã hối thúc hoàn thiện sớm pho tượng để giao cho khách. Nếu không có những lời thúc ép của ông, có lẽ chúng đã kịp tránh được cơn dông.
Những tiếng ho vỡ ra bên dưới lồng ngực. Giọng ông thều thào trong điện thoại: “Về nghe con! Mười mấy năm rồi, về thăm ba một lần chớ con”.
Thạch im lặng, cố nén tiếng thở dài. Gương mặt ông chập chờn hiện lên trong tâm trí Thạch. Những vết chân chim, những chấm đồi mồi, cả những nếp nhăn của độ tuổi gần tròn tám mươi mà anh từng nhìn thấy qua những cuộc gọi video. Chúng lần lượt dội về.
Thạch xòe bàn tay ra, nhẩm đếm. Anh không nghĩ mình đã rời nhà lâu đến thế. Chẳng trách, dì Sáu hễ gặp Thạch đều hỏi: “Có tính khi nào về thăm nhà chưa con?”.
Dì là chủ xóm trọ nơi Thạch dừng chân và bám trụ Đà Lạt suốt những năm qua. Cả dãy trọ hơn bảy phòng, chỉ mỗi dì quán xuyến. Những ngày cuối năm, dì luôn đi đâu đó biệt tăm khoảng chừng một tuần. Đã mấy lần Thạch lân la hỏi thăm, dì đều không nói. Cho đến một ngày, Thạch vô tình bắt gặp dì một mình thẫn thờ bên bộ ghế đá ở sân sau, mắt nhòe nhoẹt ướt.
Thạch tiến lại gần, chạm khẽ đôi vai gầy guộc đang rưng rức khóc: “Trời sắp chuyển mưa rồi, sao dì Sáu ngồi đây?”.
Dì giật mình ngước lên nhìn Thạch, kéo vội tà áo chặm lên khóe mắt. Giữa gió chiều và tiếng lòng rưng rức, lần đầu tiên dì kể về con trai. Nó nghiện ma túy từ khi nào chẳng rõ, rồi sa vào con đường phạm pháp. Nó đem hết tài sản tích lũy của dì để giải quyết cơn nghiện. Nó trộm cắp, cướp giật. Nó quằn quại cắn xé không chỉ bản thân nó mà còn cắn nát trái tim dì. Vậy mà khi đứng trước tòa, nghe người ta tuyên án thằng nhỏ, bụng dạ dì quặn lại. Đau tan tác. Đau dữ dằn. Dì tưởng như mình chết đi khi đã bất lực trong vai trò làm mẹ. Lúc công an dẫn nó lên xe, dì thậm chí không dám đến gần. Dì cũng chẳng chen nổi với đám đông hiếu kỳ đang chỉ trỏ kẻ phạm nhân quen mặt của cái xóm nghèo này. Dì đứng từ xa trông theo dáng nó lầm lũi cúi đầu nhìn chiếc còng số tám. Trước khi leo lên xe, dì thấy nó còn ngoái đầu về phía sau, chắc để tìm dì đang lẩn khuất đâu đó giữa đám đông. Chợt, nó cười. Lòng dì thì tan nát.
Tội lỗi của nó, dì nhận hết về mình. “Nhưng, pháp luật mà con, ai làm nấy chịu, dì làm mẹ, có chịu thay nó được đâu, dẫu là lỗi của dì không dạy nó đến nơi đến chốn”, dì vừa nói vừa nhìn xa xăm.
Từng lời dì nói như rút hết ruột gan. Thạch nghe thấy nỗi đau dai dẳng đang giằng xé tâm can dì. Chợt, dì Sáu nắm lấy bàn tay Thạch. Dì vỗ vỗ lên mu bàn tay, thủ thỉ: “Cha mẹ nào cũng đều thương con, thằng con dì như vậy, dì còn không bỏ được nó. Huống gì ba của con. Về đi con, kẻo sau này hối hận”.
Từng lời của dì Sáu như mũi dao găm thẳng vào tim Thạch. Đau âm ỉ. Ký ức ngày xưa như một vết nhiễm trùng mỗi ngày thêm lan rộng. Nó ăn mòn Thạch qua năm tháng. Thạch vẫn thường mơ thấy ác mộng. Thằng Bàn sõng soài bên khối đá chợt nhuốm màu đỏ. Đá rền rỉ những thanh âm ai oán. Đá ngấu nghiến những phận đời sinh ra từ làng trong màn bụi đá li ti, mù mịt. Đá ôm siết cuộc đời những đứa trẻ lớn lên từ làng như Thạch và Bàn. Để rồi, tất cả họ đều gắn chặt số phận mình với đá. Giống như Bàn, mất đi vì đá. Cũng giống như Thạch, vì đá mà chẳng dám một lần trở về.
Thi thoảng, Thạch xem báo. Người ta nói về một làng đá vô cùng lạ lẫm. Những tuyến đường mở rộng. Biết bao cơ sở điêu khắc và kinh doanh được tu sửa hoành tráng. Làng đá đã trở thành làng du lịch từ lúc nào chẳng rõ.
Những bàn tay chai sần từng nắm chặt cái đục, con ve,.... giờ hí hoáy bên sổ sách với những phòng ốc được bày trí thành dạng homestay. Những tấm ảnh chụp con đường quen thuộc ngày xưa, nay hiện lên mặt báo khang trang, mới mẻ. Vẫn đá, vẫn tượng nhưng không còn cảnh mịt mù khói bụi. Thạch căng mắt tìm những vết dấu quen thuộc của chốn cũ, nhưng không thấy. Đà Nẵng khác rồi, làng đá cũng khác rồi.
Trong những đêm không ngủ, Thạch thường nghĩ về đá. Những màn bụi đá trắng xóa. Những tiếng đẽo đục lúc thanh lúc trầm. Ở đó, những tượng Phật, Thánh, Chúa, kỳ lân, tỳ hưu, sư tử,.... xếp đầy trước sân. Có đôi khi, đá lì lợm căng mình dưới những nhát đục. Đá không vỡ. Chỉ có đôi tay và sức lực của người thợ đá dường như bị vắt kiệt. Cũng có lúc, đá mềm ra dưới từng cái chạm khẽ, để đôi mắt được thần hơn, để nụ cười duyên hơn, để tà áo lướt bay theo gió.
Thạch còn nhớ, gần hai mươi năm trước, bão lớn vào Đà Nẵng. Dù đã di dời phần lớn khối đá vào kho, số còn lại đã chằng chống kỹ lưỡng, nhưng sức gió lớn, nhiều khối tượng vẫn oằn mình nghiêng ngả. Thằng Bàn đứng trong nhà nhìn ra trời bão lớn, vừa khóc vừa nói: “Tội đá quá anh hai”. Bão vừa tan, thằng Bàn chạy ra sân. Nó đưa tay xoa xoa lên từng khối tượng, như dỗ dành cơn đau vì gió ghì, mưa tạt. Vậy mà, cuối cùng thằng Bàn cũng nằm lại bên đá.
Thạch dụi tắt điếu thuốc sắp tàn. Anh nửa muốn trở về, nửa lại không dám. Trời đêm Đà Lạt se sắt. Ngón tay cái lướt đi lướt lại trên trang web đặt vé máy bay. Một tiếng thở dài hắt ra thật mạnh. Nút xác nhận thanh toán cũng vừa vang lên một tiếng click thật khẽ.
Thạch đứng dậy, đi về phía ban công. Ngoài trời, gió khuấy động mặt hồ Xuân Hương phía xa xa. Lòng Thạch cũng lăn tăn gợn sóng.
3. Chiều tím ngắt. Hoàng hôn vừa kéo về phía sau rặng núi. Ông Chước sang chơi, ngồi bên ghế đá, nhấp một ngụm nước chè đăng đắng. Buông tiếng thở dài, ông nhìn sâu vào đôi mắt Thạch. Ngày xưa, ông từng đứng bên ghế đá, giữ lấy đôi vai Thạch run lên bần bật khi vành khăn tang trắng muốt rủ xuống vai anh. Bây giờ, cũng chỗ đó, Thạch hướng tầm mắt mình nhìn về thăm thẳm. Ông không biết Thạch đang nghĩ gì.
Từ ngày về đây, Thạch lầm lì không nói. Thi thoảng, trong những đêm trằn trọc, ông nghe tiếng đá vẳng giữa đêm sương lạnh buốt. Từng nhát đục rất khẽ, vang lên rồi im bặt. Mở hé cửa sổ, ông thấy sân sau nhà ông Bảy le lói ánh đèn. Giờ đó, chỉ có thể là Thạch. Đã mấy lần ông tính khuyên răn nhưng chưa thể mở lời. Ông có cảm giác, Thạch vẫn mang một khối đá nặng trĩu trong lồng ngực. Nhấp thêm một ngụm nước chè nữa, ông Chước chậm rãi nói: “Phải đối diện thì mới thôi dằn vặt, có trốn tránh hoài được đâu con”. Thạch quay sang nhìn ông, lặng im.
Ông Chước sinh ra đã là người của làng này. Ông lớn lên với từng pho tượng. Đá là đồ chơi của ông. Đá là bàn học, là giường ngủ. Rồi đá vận vào đời ông cái nghề day dứt, không thể nào buông bỏ. Ông có thể phân biệt được đâu là tiếng đá lúc thợ đục đẽo, đâu là tiếng những mũi ve, mũi ngô chạm vào mình đá hay tiếng đá tan ra dưới ma sát của giấy nhám, bàn chải. Nhưng đến tận hôm nay, ông vẫn không thể nào khắc chạm được đôi mắt có thần giống như thằng Bàn từng làm. Và ông biết, chỉ có Thạch - mỗi riêng Thạch mới có thể thay thằng Bàn hoàn thành bức tượng Quán Thế Âm năm đó. Vì Thạch có dòng máu của một trong những người thợ đá lâu đời đã khai sinh ra làng này.
Thạch vẫn lặng thinh. Anh nghĩ về những khối đá. Anh nghĩ về thằng Bàn. Tâm trí anh đang trôi lơ lửng trong ánh nhìn khắc khoải, trầm đục của ông Bảy mỗi lúc nói về tương lai của nghề đá truyền thống gia đình.
Trời kéo gió. Những áng mây cuối chiều tan ra. Trăng thượng tuần treo lơ lửng. Tiếng thở dài của ông Chước chốc chốc lại lẫn giữa thênh thênh tiếng gió. Chợt, ông vịn lấy bàn đá, loay hoay đứng dậy: “Bác về ăn cơm đã, con cứ suy nghĩ lời bác nói. Ba con cũng già rồi, ổng đau đáu hoài không yên cũng tội nghe con”.
Thạch “dạ” hờ hững. Ánh mắt anh trôi về phía trăng. Những tiếng chuông chùa vọng lại từ chân núi Kim Sơn, nơi Thạch và Bàn từng chơi trốn tìm trong động Quan Âm huyền ảo với những khối thạch nhũ lạ lùng.
Trời dần về khuya, Thạch vẫn chưa ngủ. Từ lúc về đây, chưa có đêm nào Thạch yên giấc. Từng ký ức đan xen nhau tìm về. Chúng quấy rối Thạch. Chúng đánh thức anh giữa những cơn ngủ chập chờn.
Đêm trời gió, Thạch co ro ôm lấy chân mình trong góc phòng le lói sáng. Trăng neo trên đầu nhánh mận già. Từng giọt trăng xuyên qua kẽ lá, rơi vào phòng Thạch. Ánh trăng ngả nghiêng trên chiếc bàn nhỏ mà thằng Bàn từng cặm cụi tạc hình con mèo năm nó vừa tròn mười hai tuổi.
Thạch căng tai lên, nghe tiếng gió lùa giữa từng kẽ đá ngoài sân. Gió trườn qua tấm rèm mỏng manh, tràn vào mắt Thạch.
Ở phía gió, người đàn ông ấy lại xuất hiện. Thân hình gầy gò nấp sau chiếc áo phong phanh bạc phếch. Ông ngồi bên khối đá to bằng nửa thân người ngay trong sân nhà. Tay ông đẽo đục. Những nhát đục lúc rền rỉ, lúc vang vọng.
Ông vừa đục, vừa khóc. Ông vừa đẽo, lại vừa cười.
Bóng đêm nhòe nhoẹt nơi khóe mắt. Thạch thở hắt ra một làn hơi thật mạnh, cố đoán xem chuyện gì xảy ra với phiến đá và người đàn ông ấy. Anh chống hai tay xuống nền nhà, từ từ đứng dậy. Đôi mắt Thạch dán chặt vào tấm lưng quen thuộc đang gần trước mắt. Trăng trôi nhanh, nấp sau tàng cây. Anh khựng lại, cố giương đôi mắt mình nhìn vào màn đêm dần trở nên đặc quánh.
Tiếng đá rỉ rả vang lên. Bóng người đàn ông nhòe đi, rồi lại hiện rõ. Cứ lần lượt như vậy, dưới trăng, khung cảnh sân vườn nhà Thạch trở nên mơ hồ khó tả.
Từng làn bụi đá bị gió đêm thổi tung mù mịt. Thạch cảm nhận được mùi của bụi đá vừa chạm nơi đầu mũi. Anh lắng tai nghe từng nhát đục trượt trên mình đá để cố định hình một cảm giác quen thuộc mập mờ trong ký ức.
Là ông Bảy? Không đúng! Là ông Chước? Hay thằng Bàn?
Trăng chơi trốn tìm, hé dần khỏi những tán mận già. Người đàn ông đã quay lại từ lúc nào chẳng rõ. Ánh nhìn ông xoáy sâu vào từng tế bào trên người Thạch. Anh nghe tim mình loạn nhịp.
Thạch chới với.
Tiếng cười lại cất lên.
Người đàn ông đứng dậy, nhìn về phía trăng. Ở phía đó, tiếng chuông thức chúng từ chùa Quán Thế Âm vừa vang lên tiếng gõ đầu tiên. Ông đưa tay chỉ lên khối đá nằm chỏng chơ giữa sân gạch bám đầy rêu phủ. Khối đá bỗng vỡ ra thành hình con mắt. Một ánh nhìn bi mẫn và chứa chan từ ái. Thạch bấu chặt những ngón chân của mình trên nền gạch. Anh cố đứng vững. Gió tạt qua lạnh buốt. Gió thổi tung từng lọn tóc. Gió cuộn vào sau gáy Thạch những cơn run rẩy mơ hồ.
Thạch quên mất người đàn ông ở phía đối diện. Một giọt lệ rơi từ con mắt, long lanh sáng. Giọt lệ tan ra khi vừa chạm đến sân gạch. Thạch soi bóng mình trong ánh nước.
Trời gọi về một cơn gió lớn. Mây che trăng. Bóng người đàn ông vụt tắt. Chỉ có tiếng cười vẫn còn đọng lại. Giữa thênh thênh tiếng gió, Thạch đưa tay ôm lấy gương mặt mình. Những hình ảnh đan xen ào ạt bủa vây.
Một con mắt. Một giọng cười.
Và nhành dương liễu nghiêng mình trong bóng gió.
4. Thạch choàng tỉnh. Mồ hôi nhễ nhại. Anh đưa tay quờ quạng tìm
điện thoại. Gần bốn giờ sáng, trời vẫn còn trăng. Ngồi bật dậy, Thạch lao ra khỏi cửa. Sân vườn lặng im, chỉ vẳng tiếng gió. Anh đứng trước cửa nhà kho, có chút phân vân. Thạch hít một hơi thật sâu, căng đầy lồng ngực. Trong tích tắc, hơi thở hắt ra, Thạch mở toang cánh cửa trước mặt.
Công tắc đèn tuýp vẫn nằm chỗ cũ, ánh sáng bao trùm cả gian nhà kho chất kín những tượng đá ngổn ngang. Có tượng đã thành hình. Có tượng còn dang dở. Cuối góc phòng, tấm bạt màu xanh cũ kỹ đang trùm kín một khối tượng. Sợi dây thừng đan chéo những đường quấn chằng chịt. Thạch bước tới, đưa tay gỡ mối gút.
Tấm bạt rơi xuống. Bức tượng Quán Thế Âm một mắt đang nhìn thẳng vào Thạch. Một tiếng chuông dội giữa lồng ngực. Thạch run rẩy lướt bàn tay mình trên khối tượng. Từng chi tiết uốn lượn của pho tượng kéo Thạch về những cảm xúc chông chênh đã dồn nén suốt mười mấy năm qua.
Thạch loay hoay tìm kiếm. Anh nhặt lên một chiếc khoan khí, một mũi ve và một mũi ngô trong thùng dụng cụ đặt sát mép cửa. Nắm chặt các dụng cụ trong tay, Thạch cố hình dung nụ cười từ ái của mẹ Quán Thế Âm khi đôi mắt được hoàn thiện. Đó sẽ là một nụ cười hiền hòa, đầy bi mẫn. Nụ cười hiện lên phía sau ánh nhìn từ bi, bao dung và tha thứ.
Thạch nhìn thật chậm, thật kỹ con mắt bên trái đã được thằng Bàn hoàn thiện mười mấy năm trước. Thạch bắt đầu khoan. Những mũi ve, mũi ngô lần lượt được sử dụng đan xen để con mắt đạt được tỷ lệ lượn tròn, uốn góc đẹp nhất.
Một nhát tạc. Một nhát đau. Cảm giác bất lực trong cơn dông chiều mười mấy năm trước dường như ùa về nguyên vẹn. Chúng giãy giụa. Chúng giằng xé. Chúng nhấn chìm Thạch trong muôn triệu ẩn ức cứ ngỡ đã phần nào yên ngủ.
Sương dần tan. Trăng trên ngọn cây đã níu bóng ngày chớm nở. Thạch ngồi phịch xuống nền gạch, thở hắt ra làn hơi mệt nhoài. Anh thả rơi dụng cụ trước mặt. Hai hàng lệ trào ra mặn chát.
Ông Bảy vịn cây gậy trúc, đứng ngay mép cửa đăm đăm nhìn. Nụ cười ông nở ra trên gương mặt vẽ đầy những nếp nhăn hạnh phúc.
5. Mười sáu tháng ba âm lịch, chuông chùa vọng ngân. Phía xa xa, một bóng người ẩn hiện. Bộ y lả lướt giữa bình minh thênh thang gió.
Từ phía núi, đôi mắt hiền từ phóng xuống những tia nhìn bi mẫn. Người nở nụ cười đầu tiên sau khi mở mắt trọn nhìn. Nhành dương liễu nhỏ xuống mấy giọt cam lồ.
Một cuộc người đã đến và đã đi.
Cũng một cuộc người, ngỡ đã chết nhưng tự mình sống lại.
Mây cuốn về từ đỉnh Kim Sơn. Trên vầng mây xanh thẳm, người ta thấy một đứa trẻ mười hai tuổi, tay cầm cái đục nhỏ, đang tỉ mẩn tạo hình con mèo bé xíu để làm quà tặng anh trai.
Dưới chân đỉnh Mộc Sơn, một đứa trẻ khác, cặm cụi dâng lên nén hương kính cẩn Tổ nghề.
P.T.N.C