Di sản ảnh - Ký ức thời gian

Một tấm bưu ảnh chụp cảnh Chùa Cầu, có dán con tem “Cô gái Nam Bộ”
Từ lâu, nhiếp ảnh trở thành phương tiện thiết yếu phục vụ cuộc sống của nhân loại. Con người đã tạo ra kho tàng tác phẩm nhiếp ảnh đồ sộ, được lưu giữ và phổ biến dưới nhiều hình thức. Những bức ảnh có giá trị về tư liệu, lịch sử, nghệ thuật đó gọi là di sản ảnh. Hiện nay, khái niệm di sản ảnh đối với quốc tế đã trở nên quen thuộc, tuy nhiên ở Việt Nam thuật ngữ này vẫn còn nhiều điều mới lạ. Có 3 loại hình di sản văn hóa: di sản văn hóa vật thể, di sản văn hóa phi vật thể và di sản tư liệu. Di sản tư liệu gần đây rất được quan tâm nghiên cứu, bảo tồn và phát huy. Di sản tư liệu là những văn bản, hình ảnh, bản vẽ, bản khắc chạm được lưu giữ, thể hiện trên nhiều chất liệu như giấy, lụa, vải, gỗ, đá... với những loại hình tiêu biểu như bi ký, mộc bản, thư tịch cổ, hình ảnh.
Di sản ảnh là một loại hình chiếm vị trí quan trọng trong kho tàng di sản tư liệu. Theo phân loại của tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) thì ảnh nằm trong lĩnh vực di sản thông tin tư liệu, tài liệu, có người gọi là tài liệu hình ảnh, nguồn dữ liệu hình ảnh. Lĩnh vực này hiện chưa được đặt ra trong Luật Di sản văn hóa của Việt Nam như một loại hình riêng.
Bưu ảnh - loại hình di sản ảnh độc đáo
Từ khi ra đời đến nay, nhiếp ảnh đóng vai trò quan trọng trong phản ánh xã hội. Người chụp ảnh có thể ghi lại kịp thời và chân thực về thiên nhiên, hoạt động của con người. Số ảnh ra đời ngày càng nhiều theo thời gian và được công nhận là loại hình di sản tư liệu của nhân loại. Có nhiều loại ảnh, như ảnh nghệ thuật, ảnh báo chí, ảnh khoa học; trong đó mảng bưu ảnh và ảnh lưu niệm cá nhân và gia đình luôn chiếm số lượng lớn nhất và trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống của con người. Và đây cũng là loại di sản ảnh được quan tâm và có giá trị nhất trong cuộc sống.
Bưu ảnh là một nguồn quan trọng trong kho tàng di sản ảnh. Trên thế giới, bưu ảnh ra đời từ khá sớm, gắn liền với sự phát triển của tem thư ngành bưu chính. Lúc đầu người ta gửi cho nhau những dòng chữ, thông điệp qua bưu điện, gọi là bưu thiếp, sau đó, con người nghĩ ra cách in hình ảnh trên bưu thiếp để tăng tính hấp dẫn hơn nên gọi là bưu ảnh. Bưu thiếp hay bưu ảnh, người Pháp gọi là Carte Postale, còn Anh, Mỹ gọi là Post Card. Chơi bưu ảnh là thú chơi phổ biến của nhiều người. Bưu ảnh là hình thức giới thiệu, quảng bá, gìn giữ những hình ảnh về con người, thiên nhiên, cảnh quan của một vùng, đồng thời lưu niệm hình ảnh, ký ức… Trên bưu ảnh thường đóng dấu nhật ấn của bưu cục ghi rõ ngày tháng năm gửi thư, bưu ảnh. Và đây là chỉ dấu xác thực nhất để nhận biết rõ mốc thời gian. Trong khoảng thời gian từ năm 1889 đến 1945, người Pháp đã phát hành tổng cộng 75 bộ tem Đông Dương với 493 mẫu tem. Trên bưu ảnh mà người sưu tầm tem tập hợp được cho thấy luôn được dán kèm theo những con tem Đông Dương như Cô gái cầm cành ô liu; đặc biệt là những con tem mang màu sắc bản địa như tem Cô gái An Nam với gương mặt nhìn ngang, tóc bới gọn gàng sau ót; tem Phụ nữ An Nam, Phụ nữ Bắc Kỳ, Nữ nông dân cày ruộng...
Các nhà nhiếp ảnh người Pháp thời đó thường chụp và đưa vào thiệp Tết (Tết Tây) những hình ảnh độc và lạ, như chiếc áo tứ thân, chiếc khăn mỏ quạ hay khăn vấn, cái nón quai thao, hàm răng hạt huyền và nhất là nhan sắc phụ nữ... Có thể kể tên nhiều nhà nhiếp ảnh người Pháp chụp và phát hành bưu ảnh để ngày nay ta có một kho tàng di sản ảnh vô giá. Ở Bắc kỳ (Tonkin) có những tên tuổi như Dieulefils (1862-1937), Passignat, Moreau, Fauvel, Crébessac, Bonal, Dufresne…; ở Trung kỳ (Annam) có Pierre Dieulefils, Fajolle, Thanh Ba..; ở Nam Kỳ (Cochinchine) có Dieulefils, Poujade de Ladevèze, Planté, Crespin, Nadal, Wirth, Mottet… Ngoài ra, những nhà nhiếp ảnh như Emile Gsell (1838-1879), Gustave Ernest Trumelet-Faber (1852-1916), Charles Edouard Hocquard (1853- 1911), Aurélien Pestel (1855-1897), Firmin - André Salles (1860-1929)... cũng có đóng góp khá lớn vào kho tàng di sản ảnh về Việt Nam.
Nếu bưu ảnh là “thú chơi” giúp cảm nhận, trải nghiệm về thế giới, cuộc sống thì ảnh lưu niệm đi sâu vào cảm xúc, tâm hồn và ký ức của con người. Ảnh lưu niệm có sức hút đối với mọi người và mãi trường tồn với thời gian. Mỗi thời điểm, mỗi cá nhân, gia đình có cách thức để quan tâm tới hình ảnh khác nhau. Càng ngày càng có nhiều đối tượng tham gia làm nên di sản ảnh lưu niệm cá nhân. Trước đây, có sự kiện nào đó người ta mới mời “phó nháy” đến chụp ảnh. Ngày nay, nhiều người có máy ảnh riêng, nhất là máy ảnh kỹ thuật số, máy ảnh du lịch mini bán chuyên nghiệp, điện thoại... và đều có thể tự ghi lại hình ảnh của mình hay người thân, gia đình của mình. Yếu tố làm nên giá trị của ảnh lưu niệm, ảnh gia đình không phải ở tính nghệ thuật mà chính là ở tính lịch sử. Từ những bức ảnh lưu niệm của gia đình, dòng họ,... có thể tìm thấy cả một pho tư liệu gắn với lịch sử của quê hương, đất nước. Trong các bộ ảnh gia đình luôn phảng phất hình ảnh đất nước.
Di sản ảnh - từ chứng nhân lịch sử đến tư liệu nghiên cứu
Nhờ có nhiếp ảnh, người đời sau có thể biết và được nhìn rõ hơn về quá khứ theo quan điểm so sánh “trước và sau”,“xưa và nay”. Giá trị lớn nhất của di sản ảnh là tính chân thật, thể hiện qua câu nói “Trăm nghe không bằng một thấy”. Nhờ những bức ảnh mà người ta có thể tìm lại được những cái đã lùi vào dĩ vãng, nhiều điều thú vị của quá khứ: từ cách ăn mặc đến sinh hoạt, lễ hội, mưu sinh...; đường phố, chợ búa hay phong tục cưới xin, ma chay, sinh hoạt đời thường... của các tầng lớp người Việt xưa. Di sản ảnh là nguồn tư liệu quý giá để các nhà sử học, các nhà sưu tầm hình ảnh quá khứ tái hiện dấu xưa của nhiều vùng đất...
Những thông tin, chi tiết trên một bức ảnh xưa có thể mang lại những hữu ích trong nghiên cứu, bảo tồn, bảo tàng... Đặc biệt là phục hồi hiện vật (mũ áo vua quan...), trùng tu di tích đã bị hư hại, tàn phá do thời gian và chiến tranh; phục hồi di sản văn hóa dân gian đã bị mai một như tác phẩm điêu khắc gỗ, nhà cửa... Chẳng hạn như khi trùng tu cổng tam quan chùa Bà Mụ ở Hội An, những người làm công tác trùng tu cũng đã dựa vào những bức ảnh xưa của Viện Viễn Đông Bác Cổ. Hay những bức ảnh chụp các di tích kiến trúc ở Hoàng thành, lăng tẩm, chùa chiền ở cố đô Huế được người Pháp chụp ngày xưa đã trở thành nguồn tư liệu quý để trưng bày, trùng tu, gia cố, tôn trọng tính chân xác của các di sản mà tiền nhân để lại...
Trong quá trình trùng tu điện Kiến Trung ở kinh thành Huế, các hình ảnh xưa là một nguồn cứ liệu quan trọng; như các bức ảnh chụp ngoại diện và xung quanh điện thời Khải Định và Bảo Đại, đặc biệt là các bức ảnh chụp mặt tiền ngôi điện của tác giả Sallet vào năm 1928 thấy rõ đường nét kiến trúc và các chi tiết trang trí. Một số công trình kiến trúc cổ, di tích lịch sử ở thành phố Hồ Chí Minh được trùng tu, bảo tồn cũng dựa vào những bức ảnh tư liệu được chụp trong nhiều thời điểm khác nhau. Khi tiến hành trùng tu Nhà Hát Lớn, các nhà chuyên môn đã phải nhờ các viện lưu trữ ở Pháp tìm lại thiết kế và tài liệu cũ, trong đó có những bức ảnh mà người Pháp chụp về công trình này.
Ảnh là một loại “hiện vật” quan trọng trong các bảo tàng. Tại bảo tàng thường có nhiều sưu tập ảnh với bộ hồ sơ ảnh (photographic log) rõ ràng. Ở khâu trưng bày, đôi khi ảnh còn hấp dẫn công chúng hơn cả hiện vật thật. Đơn giản vì ảnh có thông tin, có hồn và có cảm xúc... Hiện nay, tất cả các bảo tàng trên thế giới đều coi ảnh là những bộ sưu tập có giá trị của quốc gia, thậm chí của nhân loại. Các bảo tàng sử dụng ảnh chụp tại một địa điểm nào đó vào các thời điểm khác nhau để tái hiện một sự kiện lịch sử. Tại dinh Thống Nhất, trong năm 2017 có cuộc trưng bày ấn tượng mang tên “Từ dinh Norodom đến dinh Độc Lập 1868-1966”. Cuộc trưng bày này kể câu chuyện gần 100 năm của một dinh thự nổi tiếng; và đây là cuộc trưng bày không hiện vật mà xuyên suốt, chủ đạo là ảnh.

Dinh Đốc lý Đà Nẵng xưa, nay là Bảo tàng Đà Nẵng (ảnh trái) và cầu Nam Ô trên bưu ảnh xưa (ảnh phải)
* Giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di sản ảnh
Để bảo tồn, phát huy giá trị di sản ảnh, trước hết cần quan tâm hoạt động sưu tầm, xây dựng sưu tập, quản lý và khai thác ảnh như một loại hình di sản văn hóa. Các cơ quan như bảo tàng, nhà lưu niệm, nhà truyền thống cần tổ chức nghiên cứu, sưu tầm về ảnh gia đình cùng những câu chuyện của chúng để phục vụ cho việc góp phần bảo tồn di sản ảnh. Cần xây dựng cơ sở dữ liệu (database) mở để phổ biến trong công chúng. Việc này cần được làm càng sớm càng tốt, vì lợi ích lâu dài của nó. Ảnh tư liệu trưng bày tại nhiều bảo tàng nước ta đều là ảnh được sao chụp qua nhiều lần, chất lượng thấp, mờ nhạt.
Hiện tại, trong các thư viện, kho lưu trữ văn hóa của nhân loại, các nhà sưu tập, các gia đình và cộng đồng đang còn có rất nhiều hình ảnh của xã hội và cuộc sống bị lãng quên. Những người nghiên cứu di sản của quá khứ cần tích cực sưu tầm và phổ biến di sản đang còn ẩn giấu này. Công nghệ hiện đại - như internet, cung cấp phương tiện để tiếp cận nguồn tài liệu hình ảnh, không những cho phép tìm được các bức ảnh chúng ta cần mà còn cung cấp thông tin về trình tự thời gian và không gian của chúng. Nhờ di sản ảnh mà người đời sau hiểu được những sự việc đã diễn ra hàng trăm năm trước. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam từng mở cuộc trưng bày về thời kỳ bao cấp, với những hình ảnh người dân xếp hàng mua gạo tem phiếu, chen chân ở các bến xe đò... đã gợi lại ký ức một thời khó phai.
Cùng với đó, cần khuyến khích việc hiến tặng di sản ảnh. Có nhiều bộ ảnh quý được hiến tặng cho các bảo tàng trong nước. Tiêu biểu như đôi vợ chồng người Pháp đến bảo tàng Hoàng Hoa Thám ở Bắc Giang tặng bộ ảnh chụp ở Yên Thế vào thập niên 1890, lúc ông cố của họ đóng quân ở đó. Vào năm 2006, bà Annick Perrot, người Pháp, nhận ra một số ảnh xưa treo trong khách sạn Metropole Hà Nội giống hình trong album gia đình đã lưu trữ trăm năm qua. Về xem, thấy quả đúng như vậy, bà liền chụp lại và gửi tặng cho khách sạn những file ảnh tư liệu của gia đình. Đó là cảnh Hà Nội những năm thập niên 1920-1930, nơi người thân của bà đã sống... Hay bộ ảnh tư liệu dân tộc học gồm 200 bức về cuộc sống ở Tây Nguyên, do Jean-Marie Duchange (người Pháp, sinh năm 1919) chụp vào những năm 1952-1955, khi ông làm nhân viên y tế ở đây. Bộ ảnh được thực hiện bằng máy Rolleiflex và Samflex chụp phim âm bản khổ 6 x 6, là các loại máy ảnh tiến tiến thời bấy giờ. Ông Jean-Marie Duchange và gia đình đã bảo quản rất cẩn thận bộ sưu tập nên hình ảnh vẫn có chất lượng rất tốt. Bà Évelyne Duchange và bà Nadège Bourgoin, con gái và cháu ngoại của nhà nhiếp ảnh, đã tặng một phần các phim âm bản cho Bảo tàng Quai Branly (Pháp) và một phần cho Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Thành lập các trung tâm lưu trữ cũng là việc cần làm. Việt Nam đang kế thừa truyền thống lưu trữ của Pháp, qua các tổ chức như Trường Viễn Đông Bác Cổ, hệ thống bảo tàng, trung tâm lưu trữ... Viện Viễn Đông Bác Cổ tại Paris hiện đang lưu giữ 7.000 bức ảnh chụp về Việt Nam trong khoảng 100 năm (1860-1957). Những bức ảnh này đã được “số hóa” và lưu ở dạng file; có hệ thống chỉ dẫn truy cập và sử dụng nguồn dữ liệu hình ảnh.
Bên cạnh đó, cần chú trọng việc xuất bản các công trình sách ảnh; sưu tầm ảnh, xuất bản các ấn phẩm về di sản ảnh. Trước đây, Trung tâm Bảo tồn di sản di tích Hội An đã phát động cuộc sưu tầm ảnh lưu niệm trong dân chúng, hiến tặng của du khách về ảnh tư liệu và đã cho ra đời tập sách ảnh Hội An ngày ấy. Một số nhà sưu tầm như Tam Thái (Thành phố Hồ Chí Minh), Nguyễn Văn Phúc (Đồng Nai) cũng đã sưu tầm hàng nghìn ảnh xưa và đã xuất bản, triển lãm các bộ sưu tập ảnh về Sài Gòn, Gia Định, Đồng Nai, Biên Hòa, được công chúng hào hứng đón nhận. Năm 2010, nhà nhiếp ảnh Tam Thái cho ra mắt tập sách ảnh Ngày xưa, Langbian... Đà Lạt với hơn 200 ảnh sưu tập từ các phim gốc chụp về cao nguyên Langbian từ thập niên 50 của thế kỷ trước. Hay công trình sách ảnh 150 năm hình bóng Sài Gòn - TP HCM 1863-2013 (NXB Trẻ) của tác giả này là tập hợp nhiều tư liệu biên khảo, tra cứu công phu về địa danh, nhân vật, hiện tượng, sự kiện văn hóa diễn ra trong suốt 150 năm: từ năm 1863 - thời điểm Pháp vừa đặt nền cai trị và cũng là năm ra đời các bức ảnh đầu tiên chụp về Sài Gòn cho đến năm 2013... Hình ảnh là nguồn sử liệu sinh động, chân thật phản ánh quá trình hình thành, phát triển của một vùng, một địa phương. Di sản ảnh là nội dung cốt lõi của các công trình biên soạn địa chí của các địa phương...
Ngoài ra, thành lập bảo tàng nhiếp ảnh cũng là việc cần làm. Bảo tàng là thiết chế văn hóa - giáo dục, là nơi nghiên cứu, bảo tồn các sưu tập di sản văn hóa. Trên thế giới từ lâu đã thành lập một số bảo tàng nhiếp ảnh như Bảo tàng Nhiếp ảnh Charleroi Vương quốc Bỉ, Bảo tàng tư nhân Albert Kahn ở ngoại ô Paris… Bảo tàng Albert Kahn đang lưu giữ trên kính ảnh màu của Leson Busy, chụp về sinh hoạt của người Việt vào giữa thập niên 1910. Bảo tàng Nhiếp ảnh Charleroi khá qui mô, là địa điểm thu hút đông đảo khách tham quan cũng như giới nghiên cứu lịch sử đến từ các nước châu Âu. Tại Hoa Kỳ có khoảng 20 bảo tàng nhiếp ảnh lớn nhưTrung tâm Nhiếp ảnh quốc tế, Bảo tàng Nhiếp ảnh Đông Nam Á... Nổi bật nhất là Bảo tàng Nhiếp ảnh San Diago, được thành lập vào năm 1983, là một trong 3 bảo tàng hàng đầu của Hoa Kỳ về triển lãm ảnh. Ở Việt Nam có Trung tâm Lưu trữ và triển lãm ảnh quốc gia, được thành lập tháng 3/2012 thuộc Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam, có chức năng như một bảo tàng nhiếp ảnh. Ngoài ra, tại Hà Nội cũng có một số bảo tàng như Bảo tàng Nhiếp ảnh Lai Xá, Bảo tàng Ký ức nhiếp ảnh... Là địa phương có lịch sử lâu đời gắn bó với nhiếp ảnh, thật lý tưởng nếu tại Đà Nẵng có một bảo tàng nhiếp ảnh (của nhà nước hoặc tư nhân). Nếu chưa thể thực hiện ngay thì trước mắt, có thể hình thành bộ phận chuyên trách về bảo tàng ảnh tại Bảo tàng thành phố...
Ở Việt Nam, cơ chế, chính sách bảo vệ loại hình di sản ảnh còn khá bất cập. Các bảo tàng sử dụng ảnh thường xuyên nhưng chưa coi trọng nghiên cứu, xây dựng hồ sơ khoa học cho ảnh, chưa bảo vệ ảnh như một di sản đặc biệt. Họ sử dụng ảnh để trưng bày nhưng chưa quan tâm lắm đến nguồn gốc, chất lượng và nhất là bản quyền tác giả. Một bất cập nữa là chưa dành kinh phí thích đáng cho việc sưu tầm, nghiên cứu để xây dựng các bộ sưu tập ảnh có giá trị về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật. Có những bộ ảnh cần phải được công nhận và được bảo vệ trong danh mục quốc gia theo như cách ứng xử với bảo vật quốc gia.
Di sản ảnh là một tài sản quý báu. Ảnh chính là nhân chứng lịch sử và nhà nhiếp ảnh chính là người chép sử bằng ảnh. Để phát huy di sản vô giá này, cần quan tâm hơn nữa đến việc nghiên cứu, sưu tầm, xây dựng bộ sưu tập, quản lý và khai thác hình ảnh như một loại hình di sản văn hóa. Các cơ quan như bảo tàng, nhà lưu niệm, nhà truyền thống cần tổ chức nghiên cứu, sưu tầm về ảnh gia đình cùng những câu chuyện của chúng để phục vụ cho việc góp phần bảo tồn di sản ảnh. Các ngành và các địa phương nên quan tâm đến di sản ảnh càng sớm càng tốt vì lợi ích đặc biệt và lâu dài của nó trong cuộc sống hôm nay và mai sau...
T.T.V
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Trần Thị Minh, “Mộc bản triều Nguyễn - bảo vật hoàng triều”, Tạp chí Xưa & nay, số 515 (01-2020), Hà Nội, 2020, trang 46-49.
- Trần Đức Anh Sơn và nhóm tác giả, “Điện Kiến Trung: Những khác biệt giữa tư liệu và dự án trùng tu đang thi công”, Báo Tuổi trẻ số ra ngày 02/10/2020.
- Hoàng Kim Đáng, Lai Xá - làng nhiếp ảnh, NXB Chính trị Quốc gia, 2004.
- Tạp chí Xưa & Nay, Hà Nội - Huế - Sài Gòn đầu thế kỷ 20, NXB Văn hóa Sài Gòn, 2007.
- Nguyễn Đức Chính, Văn hóa nhiếp ảnh, NXB Thông tấn, 2008.
Dương Trung Quốc, “Một pho sử bằng ảnh”, Tạp chí Xưa và nay, số 505, tháng 3/2019, tr.6-9.