Thơ Bùi Việt Phương
Nhà thơ Bùi Việt Phương, sinh năm 1980 tại Sơn La, quê gốc ở Hưng Yên, hiện cư trú tại tỉnh Hòa Bình; Là ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh Hòa Bình; Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Hòa Bình.
Tác phẩm đã xuất bản: Ngày lạ (Tập thơ, NXB Hội Nhà văn, 2019); Đồng bạc trắng của bà (Tập truyện thiếu nhi, NXB Kim Đồng, 2019); Mắt trong (Tập thơ, NXB Hội Nhà văn, 2020); Nhựa sống (Tập tản văn, NXB Quân đội Nhân dân, 2020); Dưới chân đèo vẫn có mây bay (Tập truyện ngắn, NXB Hội Nhà văn, 2020); Văn chương - Tầm đón
(Phê bình tiểu luận, NXB Hội Nhà văn, 2020).
Giải thưởng đã đạt được: Giải C, Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam năm 2019 cho tập thơ Ngày lạ; Giải Nhất, Cuộc thi Ký và truyện ngắn của Tạp chí Cửa Việt - Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị cho truyện ngắn Năm tôi 49 tuổi; Giải Ba, Cuộc thi thơ kỷ niệm 75 năm ngày Quốc khánh Nước CHXHCN Việt Nam (02/09/1945 - 02/09/2020), Ban sản xuất các chương trình giải trí, VTV3, Đài THVN cho bài thơ Biên thùy).
Cánh đồng
Cả cánh đồng vốn đầy ắp cỏ
Cả cánh đồng đã đầy tiếng mõ
Gặm đến khô cằn, đàn trâu là mùa xuân.
Khi đủ một bầy chúng mới lạc nhau
Đồng thanh che lấp từng khuôn mặt
Những con trâu to kềnh vẫn cần phải lớn
Bụng tròn nằm đợi cánh đồng
Cánh đồng cũng cần phải lớn
Đợi đàn trâu đứng dậy bước đi…
Có những loài chỉ đợi ăn những con sâu
Có những loài chỉ đợi ăn những tiếng hót
Có những loài chỉ đợi mật ngọt
Có những loài chỉ đợi những cái chết
Loài trâu đã gặm sạch cánh đồng
Trước khi xảy ra những điều đó
Nên đàn trâu lớn thêm
Cánh đồng mong đàn trâu đứng lên.
Tháng Giêng
Hoa mận, hoa đào tìm thấy nhà ta
Bánh chưng, dưa hành... thành linh hồn
đũa bát
Những chum vại, lọ hoa gặp nhau sau
“loạn lạc”
Còn bây giờ, trật tự: tháng Giêng!
Trên chuyến xe cuối cùng chở rác đêm
Ba mươi
Châm điếu thuốc, bác tài thành thi sĩ
Chuyện về rác cũng vô vàn triết lý
Triết lý vật vờ như rác của trần gian...
Năm mới hồi sinh cho đến muôn vàn
Ta còn trẻ ta thấy mình còn được
Lại toan tính ồn ào, thất vọng thì khe khẽ
Vụn nghĩ, vụn thương... rồi xe rác giao thừa.
Tháng Giêng cứ vô thường
Biết thế đã
Đang mưa...
Mường Diềm
Núi cao bao nhiêu, nước xiết bấy nhiêu
Vùng đá ngầm nhọn sắc
Thuyền bè quan quân ngược Bắc
Giáo trùng trùng sương phủ rừng lau.
Những người con Tây Bắc đi đâu
Nếu không vượt thác và ra trận?
Chỉ núi biết, chỉ trời hay
Thoắt nhanh như sóc núi Địn Đạnh
Tiếng hô từ Bưa Ka Túng vọng Pu Canh.
Những người lính đầu tiên chưa có quân trang
Súng kíp của cha, áo Tày của mẹ
Họ ăn quả rừng cho khỏe,
Họ uống nước ngòi cho can
Qua Bờ* ngước lên bài thơ vua ban
Thấy ngàn quân hò reo trong tiếng thác
Tiểu đoàn lớn lên từ trận mạc
Còn đi giữ bản giữ mường
Súng lại trùng trùng tựa rừng lau trong sương.
Minh họa Võ Như Diệu
Tây Bắc mùa xuân
Ai cúi mặt,
Cho nước sông xanh ngăn ngắt
Hoa chuối tàn binh đốt đuốc ngẩng đầu
Người tự giấu mình kĩ như mồi lửa
Chạm mặt nhen lên những cái gật đầu.
Lời hứa sợ chim muông nhặt được
Vùi đất nâu sinh cụm, sinh bầy
Cái lạnh thức, cả miền Tây Bắc ngủ
Hoa mận, hoa đào về trong chiêm bao.
Gió đoản kiếm, cỏ rùng mình cỏ rạp
Thác trắng tung bờm, nơm nớp cả miền lau,
Đỉnh núi của then, ngàn dâu của noọng
Câu khắp dệt chăn, phà
Thấy nhớ phải tìm nhau.
Ai mài dao, mủi lòng đá núi
Cứ phát lối về cho xuân sớm chiềng ta,
Người ấy đợi, cây lim giữ đất
Người ấy mong, cây nghiến dựng nhà.
Ai ngồi lại đêm nay cùng Tây Bắc
Để sớm mai ám khói bếp trong lòng
Người thật như gai, lời mời không có nọc
Gánh ngược, hẹn thề lên với nhau không?
B.V.P
(*) Thác Bờ, địa danh thuộc Đà Bắc nay đã chìm dưới hồ thủy điện Hòa Bình nơi có bài thơ khắc trên đá của vua Lê Lợi.