Chiếc vòng cẩm thạch
Văn uống rượu Hồng Đào như uống tiên dược trường xuân. Anh nhẹ lắc rượu sóng sánh chao nghiêng con sóng. Đôi cánh mũi anh phồng hểnh như cánh hoa, hít hương rượu thơm phưng phức bay lên óc, bừng nở dây thần kinh ấm áp lan tỏa phấn khởi tâm hồn. Văn đưa bàn tay nhẹ nâng, môi kề miệng chén sứ trắng nhấp ngụm rượu lóng lánh sắc hồng tươi sáng. Men nồng chừng như thơm hương mỹ nữ thanh tân len vào gan ruột trôi dòng chảy nóng ran xoa cổ họng tới dạ dày, rồi Văn khà lên một tiếng sướng khoái tột cùng.
Văn ngước mặt lên hướng về ô cửa sổ lầu một. Đèn hương thờ tự gia tiên hắt bóng nhánh cây sanh. Tòa nhà lầu trắng in hình khối lên bầu trời muôn ánh sao. Dòng suy tưởng của Văn cuộn lên hơi thở cuộc sống trong thư phòng có tác động bởi ngoại cảnh phong thủy. Đêm khuya yên lặng tĩnh mịch. Rặng liễu ven sông im lìm. Gió sông ngưng thổi lúc nửa đêm. Con thuyền neo giữa sông như vệt buồn lặng lẽ giữa không gian trời nước mênh mông. Dấu mòn trắng lờ mờ giữa vạt cỏ và bờ lau thu hút bước chân Văn chậm rãi gót mộng du như lướt nhẹ trên mặt đất. Thân thể Văn như chiếc bóng trong gương, không động chạm cây cỏ, không động chạm màn sương lạnh đang sa xuống vạn vật. Không gian mờ ảo bóng tịch liêu. Văn mặc y phục trắng, dáng cao gầy mảnh khảnh bước đi trên dấu mòn quanh co bờ cát dòng sông vòng tay ôm tòa nhà lầu trắng.
Dòng suy tưởng chảy mơn man như rượu ngon trôi vào thân thể Văn. Những thước phim của ký ức đời Văn hiện về như gần như xa, khi nhạt nhòa khi tỏ rạng. Văn hai mươi tuổi tòng quân nhập ngũ khi vùng biên giới đất nước ngập tràn khói lửa chiến tranh. Tin tức chiến sự từ mặt trận tới tấp bay về thôn xóm. Giặc thù xâm lăng biên giới miền Tây. Nhân dân rời bỏ ruộng vườn, sơ tán tránh bom rơi đạn lạc. Tinh thần trai tráng bảo vệ quê hương khơi dậy ngùn ngụt. Nơi giảng đường đại học, lớp lớp trai trẻ anh hùng giục giã ghi danh tình nguyện xung quân trung đoàn chiến binh mặt trận miền Tây. Văn soạn hành trang lên đường chinh chiến, ôm nhớ giảng đường thân yêu, ôm nhớ bóng hình thiếu nữ xinh đẹp dịu dàng nơi xóm nhỏ bên núi Thạch Sơn.
Đã mấy chục mùa cội cây thảo nam sơn rụng lá trên đỉnh núi Đà Xuân. Văn thường uống rượu Hồng Đào, loại rượu mà Văn yêu thích, rồi đi tìm ý tình hư ảo trong cõi mộng. Nhưng Văn tình cờ gặp lại kỷ vật dẫn dắt anh về lối xưa ngày cũ tưởng đã xa mờ trong ký ức. Giờ đây hiện rõ như những thước phim tình cảm trai gái yêu thương tha thiết. Cho dù thời gian như vó ngựa phi qua song cửa, bóng chiều sương lãng đãng tới, vẫn không phải là muộn màng. Tình yêu đó thôi thúc Văn bước vào cuộc lữ hành rong ruổi tìm gặp Thơ. Bất chấp thời gian nghiệt ngã xóa nhòa nét thanh tân thiếu nữ. Văn dặn lòng cho dù mái tóc Thơ đã bạc, làn da Thơ có đồi mồi thì Văn vẫn yêu thương Thơ như ngày đó.
Ngày đó, xóm nhỏ Thạch Sơn nhà dân xếp hàng sạch đẹp ngăn nắp làm nghề tạo tác đá. Núi đá choãi chân dáng thế uy phong hùng vĩ vươn lên bầu trời cao rộng. Rừng cây xanh ngát ôm thân thớ bì cốt nhục núi đá, ấp yêu phong cảnh thiên nhiên tráng lệ. Buổi sớm mặt trời lên, đá ngũ sắc hợp quang sinh động lộng lẫy, muôn ánh huy hoàng hấp dẫn bước chân sinh viên du hành qua đây. Bên góc tường hoa có một bờ eo thon thiếu nữ. Cô thợ đá áo xanh mải mê công việc cuốn hút Văn không rời mắt ngắm cô. Cô chăm chỉ nhẫn nại mài giũa bộ bàn đôn đá xanh ngọc trong nhiều giờ liền. Máy mài xoay loang loáng. Tia nước nhỏ cản bụi theo vòng xoay. Ánh nắng chiếu rọi sắc lục lấp lánh vui tâm hồn. Lối cỏ quen mỗi ngày Văn rảo bước chân tới ngắm đôi bàn tay cô thợ đá, ngắm đôi mắt hột nhãn đen tròn, ngắm môi má tươi hồng thiếu nữ thanh tân. Cô biết mấy tuần qua chàng trai này tới đây ngắm cô làm việc. Trái tim cô cũng vui rộn ràng. Cô gắng giữ vững động tác đôi bàn tay trong công việc. Cô ngưng máy mài, đứng dậy vuốt nếp áo, quay nhìn chàng trai dong dỏng cao, khuôn mặt sáng đẹp, vầng trán rộng. Văn run run chắp tay: “Thưa cô, tôi hân hạnh được làm quen với cô”. Cô cũng run run chắp tay: “Thưa anh, tôi hân hạnh quen biết anh”. Văn giới thiệu: “Tôi là Văn, là sinh viên trường đại học”. Văn trình thẻ sinh viên. Lời nói của cô thợ đá Văn nghe như tiếng nhạc du dương thổi vào hồn: “Dạ, em tên Thơ, nhà em ở bóng mát cây sanh lớn nơi chân núi đó anh”. Cô rót trà mời anh ngồi trò chuyện nơi bộ bàn đôn đá. Câu chuyện hai người khơi gợi mở cửa vườn hồng tươi mới của tình yêu. Ánh mắt hai người nhìn nhau gọi mời tha thiết.
Tình yêu trai gái mặn nồng khởi đầu từ đó. Bước chân đôi tình nhân đã ghi dấu nơi bờ cát trắng phau bãi biển Mỹ Khê. Lầu Thi Nguyệt hai người tựa má kề vai ngắm ánh trăng vàng trên đầu ngọn sóng. Đỉnh Văn Phong hai người đón cánh gió nam vượt hành trình muôn dặm. Nụ hôn tình đầu run rẩy hoan lạc nồng nàn. Đôi tình nhân thề hứa yêu nhau chung thủy trọn đời. Văn tặng người yêu kỷ vật khắc hai chữ Văn Thơ. Chiếc vòng Văn đã đặt hàng nơi phố cổ Hội An trong tiệm chuyên chế tác bảo vật trân quý. Văn trân trọng nâng bàn tay thon nhỏ đeo vào cổ tay Thơ chiếc vòng cẩm thạch. Xóm nhỏ Thạch Sơn ghi nhận mối tình thắm thiết lứa đôi.
Nhưng giặc thù xâm lăng biên cương Tổ quốc. Lớp lớp thanh niên tình nguyện lên đường tiến ra mặt trận, thì tình yêu đó bỗng nhiên phải xa cách ngàn trùng. Những phong thư vương mùi thuốc súng nơi chiến trận bay về quê nhà ôm vạn tình yêu và nỗi nhớ. Thơ tương tư gởi giọt lệ sầu trên trang thư. Thơ đọc hoài lời yêu thương tha thiết, hình dung người yêu lính chiến oai hùng đậm nét phong sương.
Khi mùa mưa tạm biệt rừng núi Đà Xuân. Nắng mới về loài sơn mộc tích tụ khí thiêng sinh lực. Cha của Văn thường đi núi hái thuốc nam đem về sao chế bổ thang điều trị bệnh cho nhiều người. Lối mòn vào rừng lên núi hồi đó cha thân yêu đã dẫn dắt đi qua Văn còn nhớ. Văn gói cơm vác rựa đi ngày đường lên núi từ lúc hừng đông tới chiều hôm, dừng nghỉ chân mấy chặng, hơi thở dồn nơi con dốc quanh co. Văn xắn ống quần lội qua mấy dòng suối đá gập ghềnh rồi thắt chặt dây giày leo lên đỉnh núi. Cội thảo nam sơn sừng sững cao ngút trời xanh reo vui tiếng gió len qua nhành. Cây dường như cũng biết nhớ mong, biết ngóng chờ Văn tới. Văn lấy rựa vạt nhẹ vỏ cây. Nhựa hồng đào thấm đẫm hương thơm ngọt lành. Văn nhấm nháp hương vị sơn mộc, cảm thấy lòng vui khỏe. Rượu nhất gạo lứt ủ men cất thêm lần nữa đốt cháy lửa thơm. Chum rượu Hồng Đào ngâm ướp thảo nam sơn Văn khằn sáp ong miệng chum, giữ mười năm trong căn hầm cất dược liệu của cha trong tòa nhà lầu trắng.
Văn trong đoàn quân bộ đội chủ lực xung kích tham gia nhiều trận chiến đấu ác liệt trên dãy núi Đăng Rếch. Tiếng thét xung phong vang rền. Đạn pháo hú gầm rung chuyển núi đá. Mùi thuốc súng khét lẹt kích thích say máu. Đoàn quân tình nguyện rầm rập tiến lên trong lửa đạn ngợp trời. Những người lính hy sinh ngã xuống. Thân xác xương thịt tan nát nhiều mảnh. Dòng máu thanh niên thắm hồng tưới thớ đất đồi rừng Campuchia. Những người lính bị vết thương mảnh đạn cào cắt thịt da. Tay chân đoạn rời không còn nữa. Tiếng mìn kích nổ kinh hoàng. Quầng khói lửa ác nghiệt màu vàng cam bùng lên. Văn ôm bụng đau đớn gục xuống trên đường tiến công chốt giặc.
Trong phòng giải phẫu dã chiến nơi mặt trận, bác sĩ Tuấn cũng nghẹn lòng khi băng bó cứu thương. Văn hồi tỉnh, bác sĩ Tuấn nói: “Thật may mắn, anh còn giữ được mạng sống. Nhưng anh sẽ không có con khi anh lấy vợ”. Bác sĩ nắm giữ bàn tay Văn, nhẹ nhàng an ủi Văn: “Vết thương anh vài tuần sẽ lành. Ca thương này hiếm gặp. Anh đã bị mảnh đạn phăng mất hạ thể rồi”. Văn ôm mặt khóc rưng rức. Lòng đau xé, tủi nhục. Chiều hôm đó Văn muốn ôm súng leo lên núi cao siết cò súng bắn vào phận số buồn thảm. Bác sĩ Tuấn bảo: “Anh bi quan mềm yếu vậy mà chi, uổng phí một đời trai. Sau này, anh có thể xin con nuôi để thừa kế dòng họ”.
Văn chuyển tới quân y viện điều trị dưỡng thương hai năm dài đằng đẵng, tâm hồn chìm đắm trong nỗi sầu cô quạnh. Văn nhận được tin Thơ đi lấy chồng. Văn buồn tê tái lòng. Bóng hoàng hôn buông trùm chiến địa. Chiều biên giới núi rừng hoang lạnh, cỏ cây xơ xác tiêu điều. Chiến binh ôm súng gác bên trời gởi niềm thương nhớ về đất mẹ. Thì thôi mộng ước đành phôi pha. Văn không thể nào chết được từ khi tự sát không thành. Văn không còn là người tình với Thơ đoan trang xinh đẹp, thì Văn làm bạn với rượu ngon, Văn làm bạn với câu chữ ý tình. Rượu ngon và câu chữ giúp đời Văn thanh thoát, ý hướng ngày mai Văn không là người vô dụng.
Thơ nhận được phong thư của bác sĩ Tuấn - người đồng hương Thạch Sơn báo tin Văn bị mất xác trong một trận đánh nơi rừng sâu thâm u Campuchia. Thơ buồn đau khóc thương người yêu. Nước mắt tuôn rơi như mưa thu. Thư báo tin Văn mất tích hơn hai năm rồi. Trung đoàn lệnh chiến sĩ trinh sát tìm kiếm Văn khắp núi rừng chiến địa nhưng không thấy tung tích. Trên toàn mặt trận chiến trường Đông Bắc, giặc thù bị quân ta đánh tan tác rã bầy buông súng đầu hàng. Chế độ diệt chủng bị xóa sổ hoàn toàn. Quân tình nguyện thắng trận rồi, nhưng Văn vẫn không về. Bác sĩ Tuấn viết: “...Chị Thơ đừng chờ đợi anh Văn nữa, vô vọng mà thôi. Chị Thơ hãy cố quên chuyện buồn. Chiến tranh là phải có mất mát, đau thương. Nỗi đau này không phải của riêng ai...”.
Ngày Thơ đi lấy chồng bước lên con đò nhỏ sang sông, mưa thu li ti rơi trên làn nước sông Đô Toả. Đất trời chìm lấp trong màn sương mờ mịt. Rặng tre buồn rũ nhánh trên bến sông. Xóm nhỏ chạnh lòng đưa tiễn người ra đi phương xa. Thơ khóc thương người yêu cạn nước mắt: “Em xin lỗi anh Văn, xin lỗi anh!”. Chị của Thơ mắng: “Mi chờ cái chi, người ta biệt tích mấy năm rồi có còn đâu nữa mà mi chờ. Tuổi xuân có thì, cha mẹ đã ưng họ rồi, chịu gả mi về bên nớ. Lấy chồng sướng vui là mi quên hắn liền”. Bao đêm dài Thơ không ngủ, đọc lại những phong thư của người yêu lính trận, nước mắt tuôn rơi lả chả. Chốn núi rừng biên cương Văn hành quân xung trận. Những trận chiến đấu ác liệt. Cái chết người lính nhẹ như khói sương. Thơ khóc thương, Thơ tần ngần cởi chiếc vòng cẩm thạch ra khỏi cổ tay. Đôi mắt Thơ nhòa lệ nhìn lần cuối hai chữ Văn Thơ trân trọng khắc ghi kỷ niệm tình yêu. Buổi sáng Thơ đạp xe qua tòa nhà lầu trắng gặp cha của Văn tóc bạc phơ tay chống gậy dò ra sân khóc mếu: “Con ơi! Thằng Văn hắn biệt tích rồi. Trung đoàn tìm mấy năm không gặp”. Thơ run run chắp tay: “Bác ơi! Cho phép con gởi lại chiếc vòng cẩm thạch ni hồi nớ anh Văn tặng cho con... Bác cho phép con ngày mai đi lấy chồng”. Cha của Văn gật đầu: “Ừ con đi lấy chồng chớ chờ cái chi, hắn có về mô mà chờ”.
Cha Văn già yếu lâm bệnh qua đời. Tòa nhà lầu trắng đêm đó họ hàng về đông có anh chị em của Văn. Phút lâm chung chỉ một mình cha biết Văn tới nắm tay cha. Cha thều thào, Văn ghé tai nghe: “Con đó hả Văn?”. “Dạ, xin cha tha lỗi cho con”. Rồi cha đi về cõi xa trong thanh thản. Văn dáng lum khum mặc che kín người khóc vĩnh biệt cha. Người trong nhà cho rằng “ông cụ lum khum” đó là người quen cha đã bổ thuốc trị bệnh. Văn đón xe đò trong đêm về lại khu điều dưỡng thương binh.
Mười năm sau nữa, lớp trai hùng ngày đó, bây giờ mái đầu khói sương. Bóng chiều dần buông bên đời. Cảnh vật đổi khác nhiều. Đại lộ rộng thênh người xe dập dìu. Phương tiện thiết bị hiện đại tân thời. Phố lầu nhà cao đua chen vươn lên. Thạch Sơn quyến rũ người tứ phương về đông vui hội hè. Sông Hoài, phố Hội đèn hoa lộng lẫy đón mời khách năm châu. Văn trở lại quê hương, tìm gặp đồng đội cũ, thực hiện sở nguyện văn chương. Truyện tình của tác giả Thanh Văn đã đăng đàn tạp chí, nguyệt san, được nhiều độc giả mến mộ để Văn thêm nhiều động lực vui sống với niềm tin là người hữu dụng.
Hôm đó, Văn lau lớp bụi phủ bàn thờ tự. Phía trong bài vị gia tiên có chiếc hộp gỗ mà Văn chưa biết. Văn mở nắp chiếc hộp, mở vuông khăn lụa bọc ngoài, chiếc vòng cẩm thạch hiện ra như hiện ký ức tình yêu đầu đời. Giấy của cha đã ghi ngày Thơ đem vòng gởi cho cha là ngày Thơ đi lấy chồng. Văn cầm chiếc vòng cẩm thạch đứng lặng yên trào dâng cảm xúc kỷ niệm tràn về. Dòng thời gian trôi qua đời Văn lưu lại kỷ niệm tình yêu. Chiến tranh nghiệt ngã vùi dập ước mơ tuổi thanh xuân. Cơn sóng gợn lên trong lòng thôi thúc Văn phải rong ruổi đi tìm Thơ.
Năm đó Thơ bước lên đò sang ngang đi lấy chồng. Pháo hồng tung bay vỡ vụn trên bờ sông Đô Tỏa. Mẹ và chị tiễn đưa Thơ theo chồng về nơi xa xôi. Đường thiên lý qua đèo qua núi sóng xô gập ghềnh. Mùa đông giá buốt Thơ nhớ thương người yêu lính chiến. Nắm xương khô của Văn nằm nơi núi rừng có ai tìm gặp lại. Nước mắt Thơ tuôn tràn ướt đẫm áo gối. Chồng của Thơ là thương binh, Nhạc đọc kỹ những phong thư Văn ghi nơi chiến địa HT 5504xxx đã ố vàng dấu vết thời gian. Nhạc hiểu rằng thể xác và tâm hồn Thơ đã thề nguyện trao trọn vẹn cho người lính đó. Đàn ông tấm lòng cao thượng, Nhạc tâm phục và trân trọng tình yêu của Thơ son sắt thủy chung: “Thơ buồn rầu như rứa thì hại thân mình. Để tui lái xe máy đèo Thơ đi chơi vịnh Lăng Cô cho vui, leo đèo Hải Vân ngắm phong cảnh nước non bên biển bên rừng”. “Tui suy nghĩ kỹ rồi, tui không buộc Thơ làm vợ tui. Thơ làm em gái của tui cũng được. Thơ cứ quyết định cuộc đời Thơ. Thơ cứ ở đây hay là về nhà thì tùy ý Thơ. Nhưng Thơ đừng khóc nữa làm tui buồn rồi tui khóc theo đó nghe!”. Thơ đôi mắt rưng rưng vòng tay cúi đầu trước người đàn ông cao thượng: “Em ngàn lần cảm ơn anh”.
Mười năm sau nữa Thơ vẫn lủi thủi một mình chèo thuyền đưa đón người tới thăm vịnh Lăng Cô. Miền núi non hùng vĩ, trời nước mênh mông cũng làm tâm trí Thơ khuây khỏa nỗi buồn xa vắng. Mười năm trôi qua Thơ nhìn ngắm vạn người qua lại, Thơ ước mơ ông Trời ban phép lạ diệu kỳ cho Thơ được thấy khuôn mặt thân yêu của một người. Mái tóc Thơ cuộn màu sương tuyết. Làn da Thơ hiện dấu vết thời gian.
Rồi có một ngày vui lớn trong đời, Thơ không vững tay chèo thuyền. Vịnh Lăng Cô sóng xô dặt dìu. Mặt trời rực hồng nơi chân mây. Văn hiện ra khỏe mạnh, tay nắm lấy bàn tay Thơ đeo vào cổ tay chiếc vòng cẩm thạch. Sự thật rõ ràng mà Thơ tưởng như giấc mơ. Đôi tình nhân hạnh ngộ mắt rưng cười vòng tay ôm chặt nhau mãi không rời. Cây cầu mới bắc qua dòng sông Đô Tỏa mừng đón hai người trở về tòa nhà lầu trắng. Nơi đó, dòng suy tưởng nhân văn tuôn chảy như hơi thở cuộc sống rộn ràng mãi mãi hướng về phía trước.
Nhà sáng tác VHNT Đà Nẵng, tháng 6 năm 2023
N.B.K