Thơ Rabindranath Tagore (1861 -1941)

01.04.2012

Thơ Rabindranath Tagore (1861 -1941)

Được tin nhà thơ Bùi Xuân, hội viên Hội Nhà văn thành phố Đà Nẵng vừa dịch xong tập thơ Mùa Hái Quả của Rabindranath Tagore và chuẩn bị xuất bản, tạp chí Non Nước trân trọng giới thiệu một số bài thơ rút ra từ tập thơ này.

N.N

I

Hãy bảo đi và tôi sẽ mang đến sân nhà bạn những giỏ đầy quả, mặc dù có một số quả bị hỏng và một số còn chưa chín.

Bởi mùa dâng lên nặng trĩu tràn đầy, và tiếng sáo mục đồng rên rỉ trong bóng râm.

Hãy bảo đi và tôi sẽ giong buồm trên sông.

Gió tháng Ba lơi lả, lay nhẹ làn sóng uể oải làm thốt lên tiếng thì thầm.

Vườn đã mang lại tất cả, và trong thời khắc mệt mỏi của buổi chiều tà có tiếng gọi từ nhà bạn trên bờ biển trong ánh hoàng hôn.

XIX

Suda, người làm vườn, hái đóa hoa sen cuối cùng còn sót lại trong chiếc ao nhà mình qua mùa đông khắc nghiệt và mang đến bán cho nhà vua ở cổng cung điện.

Ở đó ông gặp một du khách, người ấy bảo ông, "Đóa hoa sen cuối cùng này giá cả thế nào để tôi mua cúng dường Đức Phật." Suda nói, "Nếu ông trả cho tôi một đồng tiền vàng, thì nó sẽ là của ông”.

Du khách liền chìa tiền ra.

Lúc đó nhà vua cũng vừa tới và muốn mua hoa để đi lễ Phật, và ngài nghĩ, "Quả là một điềm lành khi đặt dưới chân Đức Phật đóa sen nở vào mùa đông”.

Khi người làm vườn thưa, ông ta đã được trả một đồng tiền vàng, nhà vua liền trả mười đồng, nhưng người du khách lại trả gấp đôi.

Người làm vườn, lòng ham muốn, tưởng tượng ra một điều có ý nghĩa lớn lao hơn những gì mà họ mặc cả. Ông cúi chào và nói, "Tôi không thể bán đóa hoa sen này”.

Trong bóng râm bưng bít của khu rừng xoài Suda vượt ra ngoài bức tường của hoàng thành đến đứng trước Đức Phật, người có đôi môi im lặng của tình yêu và có đôi mắt cười rạng rỡ an bình giống như vì sao buổi sáng gội sạch sương thu.

Suda ngước nhìn gương mặt Đức Phật và đặt đóa hoa sen dưới chân Người rồi cúi đầu xuống bụi đất.

Đức Phật mỉm cười và hỏi, "Con ơi, con cầu xin ở ta điều gì?”.

Suda khóc, "Con xin được chạm vào bàn chân của Người”

XXXVII

Upagupta, môn đồ của Đức Phật, nằm ngủ trong bụi đất bên bức tường của thành phố Mathura.

Đèn đóm khắp nơi đã tắt, cổng ngõ then cài, trên bầu trời u ám của tháng Tám các vì sao mờ ảo.

Chân ai leng keng vòng xuyến, bất ngờ chạm vào ngực chàng?

Chàng giật mình thức dậy, và ánh đèn của một người phụ nữ chạm vào đôi mắt khoan dung của chàng.

Nàng là một vũ nữ, khoác trên người chiếc áo màu thiên thanh, mạn ngọc sáng ngời, say sưa với men rượu nồng nàn tuổi trẻ.

Nàng hạ thấp chiếc đèn và nhìn thấy khuôn mặt chàng, với vẻ đẹp khắc khổ.

Nàng nói, "Hãy tha thứ cho em, nhà sư khổ hạnh; em xin cung đón người về nhà em. Bụi đất không phải là chiếc giường phù hợp với chàng."

Nhà sư khổ hạnh trả lời, "Nàng ơi, nàng hãy đi trên con đường của mình, rồi khi thời gian chín muồi, ta sẽ đến bên nàng".

Đột nhiên đêm tối nổi lên sấm sét sáng lóe.

Cơn bão gầm gừ cả một vùng trời, và nàng vũ nữ run lên trong sợ hãi.

...

Hai bên đường cây cối ra hoa.

Xa nghe tiếng sáo vui tươi ngân vang trong không khí mùa xuân ấm áp.

Những thị dân đã đi vào rừng, đến với mùa lễ hội ngàn hoa.

Từ trên trời cao vầng trăng viên mãn soi xuống đêm tối của phố phường im ắng.

Nhà sư khổ hạnh trẻ tuổi bước đi dọc đường phố vắng tanh, trên những cành xoài chim Cu Cu tương tư trắng đêm than thở.

Upagupta đi qua cổng thành phố, và dừng lại ở một góc tường thành.

Người phụ nữ đang nằm co đôi chân trong bóng tối của bức tường, khốn khổ với căn bệnh dịch hạch hắc ám, lở loét đầy người, bị xua đuổi ra xa phố phường?

Nhà sư khổ hạnh ngồi xuống bên nàng, nâng đầu nàng lên đặt trên đầu gối của mình, nhỏ từng giọt nước làm ẩm ướt đôi môi và thoa dầu thơm lên thân thể của nàng.

Người phụ nữ thều thào, "Chàng là ai, mà nhân từ đến vậy?”.

Nhà sư trẻ đáp, "Thời khắc cuối cùng đã tới, ta đến thăm nàng và sẽ ở lại nơi đây”.

XLI

Người Chèo thuyền vượt biển dữ trong đêm.

Cột buồm đớn đau bởi cánh buồm trương phồng gió mạnh.

Bị móng vuốt của đêm cào cấu bầu trời sa sầm xuống biển, đầu độc biển bằng nỗi lo sợ u ám.

Những con sóng lao đầu chống lại bóng tối vô hình, và người Chèo thuyền vượt qua biển dữ.

Người Chèo thuyền ra đi, không rõ đến nơi đâu hò hẹn, làm sửng sốt bóng đêm với những cánh buồm trắng đến kinh ngạc của mình.

Tôi không biết cuối cùng chàng cập bến bờ nào để đến chiếc sân nhà lặng lẽ, nơi có ngọn đèn chong và người con gái đang ngồi trong bụi đất đợi chờ.

Điều gì khiến con thuyền bất chấp phong ba và bóng tối?

Phải chăng thuyền chở đầy đá quý và ngọc trai?

Ồ, không, người Chèo thuyền không mang theo mình kho châu báu, chàng chỉ có một đóa

hồng trắng trong tay và một bài hát trên môi.

Đó sẽ là tặng vật cho người con gái đang một mình với ngọn đèn sáng chờ đợi trong đêm.

Nàng sống trong một túp lều bên đường. Mái tóc xõa tung trong gió và che phủ đôi mắt nàng.

Cơn bão rít lên qua cánh cửa vỡ, ngọn đèn đất nung chập chờn theo gió hắt bóng lên tường nhà.

Qua tiếng gió hú, nàng nghe tiếng chàng gọi tên mình, cái tên chưa được ai biết.

Người chèo thuyền ra đi đã lâu. Chàng sẽ đến lúc ngày chưa ló dạng và gõ cửa nhà nàng.

Trống không hề khua và sẽ chẳng một ai hay.

Chỉ có ánh sáng bừng lên tỏa rạng ngôi nhà, bụi đất trở nên linh hiển, và trái tim hoan hỉ.

Tất cả mọi nghi ngờ sẽ tan biến trong im lặng khi Người chèo thuyền đến bến.

BÙI XUÂN dịch