Những góc quán văn nghệ - Hoàng Đặng
Nếu không có một tựa sách “Chân dung chàng nghệ sĩ trẻ tuổi”- đi cùng với lời bạt giới thiệu về “Một nhà văn lừng danh chuyên la cà, lang bạt người Ireland mà bạn rất dễ tìm gặp ông ta trong những quán bar ở Dublin, đó là James Joyce, tuổi 20, thời kỳ “xâm nhập thực tế” để viết sách - thì tôi không hề biết đến James Joyce cũng như không thể biết đến trên đời này có một thứ bia mang tên Guinness mà nhiều người dân Dublin tự hào về đặc sản của nước họ và cho rằng đó là “Vị thuốc được pha trộn từ sữa với kem chỉ có ở thiên đường”!
Văn của nhà văn lãng tử James Joyce như đường dẫn tới loại bia mang tên Guinness mà người dân Ireland ví von “Vị thuốc của thiên đường”. Vì vậy, 65 năm sau, tính từ ngày James Joyce mất, khi vừa đặt chân lên thành phố Dublin, tôi đã vội vã đi tìm “Vị thuốc thiên đường” ấy.
Nhiều quán rượu, nhà hàng ở Dublin đều mang tên các nhà văn lớn. Tại mỗi nơi đó ta có thể xem phim ảnh, sách báo về cuộc đời và sự nghiệp của mỗi tác giả. Chỗ tôi ngồi đầu tiên là góc sân đẹp, bàn ghế bằng gỗ sồi bình dị và tinh sạch bên cạnh bức tượng James Joyce trong bộ vét ghi-lê kiểu châu Âu, mũ nỉ ngang tàng đội lệch, tay cầm chiếc gậy mảnh, người dân Ireland thường gọi “Cây gậy châm chích” của nhà văn có khuôn mặt thông thái, hóm hỉnh và ý nhị. Quán mang tên bức tượng ấy. Ánh sáng trời khoảng tám, chín giờ tối y hệt hoàng hôn ở xứ mình. Bầu trời không hoàn toàn tối hẳn nhưng ở phố O’Connell càng lúc càng thưa dần. Trời trở lạnh hơn, 10 hay 12 độ C thì phải. Tôi rời sân bước vào trong quán. Quán đông vui và ấm cúng. Bây giờ tôi mới thực sự hiểu ra người dân Ireland có rất nhiều giai thoại trái ngược trong lối sống: Sự hà tiện và ăn nhậu. Cẩn thận khi tiêu tiền nhưng hết mình và sòng phẳng khi nhậu. Hết phiên bạn mời đến phiên mình. Cứ thế, hết “pint” (vại) này đến pint kia. Trên quầy bia có một phụ nữ, tóc nâu vàng, da trắng mịn, luôn luôn im lặng với nụ cười mỉm thấp thoáng, bỗng chốc hững hờ. Bia Guinness tươi được trữ đâu không biết, chỉ thấy dòng bia sóng sánh màu nâu đen tuôn ra từ chiếc vòi nhỏ đặt trên quầy. Khi bia được rót lưng chừng vào chiếc ly vại, những ngón tay đẹp của người phụ nữ ấy nhẹ nhàng chuyển chiếc ly trống khác vào thay thế trong khoảng thời gian vừa đủ cho ly bia trước tan hết bọt rồi trở lại rót tiếp cho đến khi vại bia đầy ngập. Dù nhiều quán bia ở Dublin đều có bán đủ loại nhãn mác thức uống có men nhưng người bản xứ vào quán thường chọn Guinness, thứ bia chế biến từ bao đời của dòng tộc ông Arthur Guinness. Bọt bia đậm đặc phảng phất màu vàng hổ phách. Hương bia nhẹ và thơm. Trong ngọt ngào êm dịu khác lạ của men bia chen lẫn vị đắng quyến rũ đến những ly bia sau.
Những ly bia kế tiếp xúi giục người uống quyến luyến thêm bởi điệu đàn Banjo, tiếng nhịp vỗ trống và giọng hát nữ của một nhóm nhạc nào đó trong quán vừa bắt đầu - “The wild Irish rovers” - ca khúc đồng dao về núi đồi, làng mạc của những người con xa tít miền Tây Âu sương mù mang linh hồn lang bạt. Đường phố vào những lúc này quạnh vắng là phải vì tôi có cảm tưởng như, đêm đêm, đa số người dân Ireland tụ tập ở quán, từ cô gái 18 đến ông lão 78. Sau một vài ly bia, họ bắt đầu nhảy múa làm không khí quán rộn ràng, tình thân.
Những ngày tháng sau, rời khỏi Dublin, tôi đi đến nhiều nơi khác của xứ sở lãng mạn thú vị này. Về Vương quốc Kerry, quần đảo Dingle và xem những lễ hội dân gian ở Galway... Đâu đâu tôi cũng gặp hoa và bia. Cũng gặp thêm một vài quán xá, câu lạc bộ mang tên các nhà văn Samuel Beckett, Bernard Shaw... Cũng thứ bia đen thơm nồng và ngọt ngào ấy. Cũng điệu trống vỗ nhịp theo điệu đàn xao xuyến Banjo của những người chơi nhạc lang bạt, giang hồ, với lối trình diễn tự nhiên, thân mật, dễ gần. Xui tôi có nhiều khi chạnh nhớ về quê xứ mình và mong ước sao sẽ đến lúc ở những góc quán, hội hè, những người tìm đến nơi đây có thể gặp được đôi phần về chân dung, đời sống và sự nghiệp của các bậc anh tài xứ sở.
Tôi đã chớm “ghiền” mùi thơm đậm đà của bia Guinness, “vị-thuốc-của-thiên- đường” và đôi mắt xanh biếc trời Tây lấp lánh dưới mái tóc vàng óng ả của thiếu phụ đơn chiếc trong một thị trấn, đêm đêm ngồi cùng tôi hàn huyên trong quán ấm. Nhưng, có lẽ cũng như mọi kẻ lãng du khác, khi đã quen cảnh, quen người, khi thấy lòng mình đã chớm bịn rịn nơi chốn xa xôi nào đó thì cũng vừa đến lúc phải trở về.
H.Đ