Văn hóa, văn nghệ dân gian đất Quảng dưới góc nhìn đương đại

21.07.2015

Văn hóa, văn nghệ dân gian đất Quảng dưới góc nhìn đương đại

Nhận thức giá trị văn hóa cổ truyền và vận dụng vào đời sống thực tiễn luôn là vấn để có sức thu hút đối với giới nghiên cứu và mọi tầng lớp nhân dần. Dĩ nhiên tùy theo nhu cầu, mục đích cụ thể của từng đối tượng mà cách tiếp nhận có khác nhau. Từ thập niên 60 của thế kỉ trước, giới Folklore Việt Nam đã đề cập vấn đế văn học dân gian hiện đại và cố gắng tìm những quy phạm về nội dung, những biểu hiện thuộc phạm trù hình thức mang tính khác biệt của nó. Những đòi hỏi mang tính hàn lâm như vậy thường bó gọn trong giới học thuật, chỉ gợi lên đồi điểu đáng suy nghĩ, tìm tòi rồi cuối cùng cũng bỏ ngỏ cho đến tận bầy giờ. Song cuộc sống luôn đặt ra yêu cẩu cao hơn đối với nhận thức văn hóa, văn nghệ dân gian nhằm góp phấn thúc đẩy xã hội phát triển trên xu hướng hội nhập. Nhiểu công trình nghiên cứu ra đời từ đây và cuốn Văn hóa, văn nghệ dân gian đất Quảng dưới góc nhìn đương đại của Bùi Văn Tiếng là một minh chứng sống động của đời sổng ấy.

Khi cầm bản thảo cuốn sách khá khiêm tốn so với các công trình trước đó viết vể xứ Quảng dày cả ngàn trang, tôi hiểu ngay, tất cả những gì gói gọn trong hơn 250 trang sách đã được tác giả nghiến ngẫm, tâm đắc và muốn chia sẻ suy nghĩ của mình với mọi người về đời sống văn hóa truyền thống của quê hương. Nhu cầu giãi bày ấy là nhu cầu tự thản và xa hơn là ý thức công dân của người viết. Nó khác với một cồng trình khoa học cần đến sự bình tĩnh, khách quan và thậm chí lạnh lùng.

Vì vậy, tác giả có quyển năng phán xét nó theo cách của mình. Thoạt tiên để ý “góc nhìn đương đại” của tác giả qua tiêu đề khiến tôi thực sự tò mò và không khỏi ái ngại vì khái niệm “đương đại” là một khái niệm vừa thông dụng vừa pha tính học thuật. Tôi không nghĩ tác giả sử dụng khái niệm “đương đại” như là sự đột phá, đối lập với phương pháp nghiên cứu truyền thống theo tinh thần của chủ nghĩa đương đại trong văn học phương Tây ngày nay. Đương đại ở đây có thể hiểu là thực tại, mà thực tại có bao nhiêu khuynh hướng, biết tác giả theo khuynh hướng nào? May thay cũng nhờ cái khung quy chiếu mơ hồ nhưng lại được giới hạn trong những điều kiện cụ thể cho phép của người viết đã giúp ngòi bút của tác giả trở lên phóng túng theo một chủ đích cụ thể: Giãi bày những suy ngẫm của cái tôi chính mình. Thế là lối viết tản văn của tác giả đã tháo gỡ tất cả những hoài nghi ban đầu của tôi. Nhờ lối viết phóng túng, nghĩ đến đâu nói đến đó (dĩ nhiên phải nghiến ngẫm đến độ chín nhất định), đã giúp tác giả thoát khỏi cái khung hàn lâm để bộc lộ đến tận cùng tính chất hổn nhiên, trung thực và dân dã của mình. Điểu đó ít nhiều xa lạ với nghề nghiệp của tác giả - là người làm công tác quản lý xã hội trên một cương vị đòi hỏi cẩn trọng trong hành ngôn. Đấy là nói vậy, vì thường người ta hay nghĩ vể bệnh nghể nghiệp thôi, còn tôi biết Bùi Văn Tiếng vốn xuất thân từ dần học văn. Nếu không rẽ lối sang ngang con đường chính trị, chắc Bùi Văn Tiếng cũng sống đến tận cùng cái nghề đã trót chọn từ sớm và có thể thành đạt như bao bạn bè khác. Cuốn sách này là một minh chứng cho sự “ngứa nghể” của con nhà văn đấy thôi. Vì vậy qua công trình nhỏ này, những người quen biết Bùi Văn Tiếng sẽ nhìn thấy ở anh một góc khác khá thú vị, vừa quen vừa lạ.

Để có công trình này, tôi hình dung tác giả phải khảo cứu kỹ các tài liệu lịch sử, văn hóa, văn học, địa chí viết vể xứ Quảng từ hàng trăm năm nay và hơn thế còn phải đi để nhìn, nghe, suy ngẫm. Cho nên dù có đi sau, Bùi Văn Tiếng vẫn tìm được tiếng nói riêng của mình qua những lát cắt tinh tế, thông minh, và trong chừng mực nào đó đã thoát khỏi những khung quy chiếu, những định kiến của người đi trước. Xin đơn cử việc đề cập quá trình mở cõi về phía Nam của các thế hệ tiền nhân trong mối quan hệ với người Chăm, điếu tôi tin là không ít sử gia thường rất dè dặt và né tránh vấn để vẫn được cho là nhạy cảm này. Những người làm sử ai cũng biết từ nhiều thế kỷ trước, tại nơi này diễn ra một quá trình thâm nhập tộc người mà biểu hiện rất đặc trưng cho cách ứng xử của người Việt, tuy đến muộn: hòa hiếu, thân ái với láng giếng, với những cư dân bản địa. Có nhiều thư tịch cổ của dòng họ ở khu vực này cho thấy thậm chí người Việt đã thờ người Chăm là tổ khai canh, khai cơ. Nếu không nhìn thấu đáo vấn để này, và nhất là nếu thiếu thái độ tôn trọng lịch sử, tác giả khó để có những kết luận: “Người Việt muốn bày tỏ với cộng đồng người Chăm rằng do chẳng đặng đừng mà phải đứng chần lâu dài trên lãnh thổ Amaravati đồng thời tự nhận chỉ là người tá thồ - mượn đất”. Nói như vậy là dám nhìn thẳng sự thật và trung thực với văn hóa - lịch sử, với tổ tiên. Tất nhiên lịch sử mở cõi vể phía Nam của dân tộc ta theo gót tiền nhân ở những giai đoạn sau đó còn do nhiều lý do khách quan khác nữa để có diện mạo như bây giờ. Tìm lối diễn đạt cho điều khó nói mà không thể tránh được quả là thách thức với người cầm bút. Do đó, tuy là phóng túng nhưng tác giả phải nắm rất vững và sâu không chỉ vể cứ liệu lịch sử mà còn hiểu được tâm tình của người xưa mới chọn được điểm nhấn đích đáng khi để cập đến quá khứ có chiểu hướng bị thời gian phủ lấp cùng với những thiên kiến, định kiến khác. Trong chúng ta, ai cũng biết một đặc tính cố hữu của dân xứ Qụảng là “hay cãi”. Qụả thực, trước đầy tôi chưa nghe một lý giải nào đủ sức thuyết phục về cố tật này như Bùi Văn Tiếng. Anh cho rằng đẩy là kiểu tư duy suy biện qua cách nhìn, cách ứng xử của người xứ Quảng, giúp cho người đọc hiểu thêm căn rễ lịch sử văn hóa của một tính cách khá tinh tế.

Những khơi gợi có tính đột phá của tác giả còn thể hiện trong việc chỉ ra mô típ con cọp trả nghĩa trong hệ thống truyện dần gian của các tộc người ở vùng đất xứ Quảng. Có thể chỉ là trực cảm mơ hổ của tác giả, nhưng tôi nghĩ chính lát cắt đúng chổ này là một chỉ dấu quan trọng về sáng tạo biểu tượng cho lòng nhân ái, cảm hóa cái ác của người Việt ở xứ Đàng Trong trên hành trình Nam tiến. Trong sầu xa, đấy là một phương thức sinh tồn phù hợp với cuộc sống khá hữu hiệu của tiển nhân do hoàn cảnh lịch sử đẻ ra. Chính mô típ này khi đi sâu vào đổng bằng sông Cửu Long được đan cài vào hệ thống truyện vế các hiền tổ lập ấp, lập làng mà hành động cảm hóa của nhân vật biến những ác thú trở nên có nghĩa tình, đã trở thành tính cách nhân ái xen lẫn với nghĩa hiệp của người phương Nam. Những ghi nhận mang tính gợi mở như vậy của tác giả không soi xét trên bình diện thi pháp, các yếu tố tổ chức cấu tạo thể loại tác phẩm nhưng thực sự tạo nên sức lan tỏa vể nhận thức và tình cảm thiêng liêng đối với thế hệ sau.

Sách còn để cập đến nhiều vấn để khác xoay quanh đời sống thực tại xã hội đang vươn lên hội nhập và những thách thức đối với văn hóa truyển thống. Là người làm công tác quản lý, tác giả cũng đề cập đến những vấn để bức xúc của xã hội đang đặt ra trong quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa của xứ Quảng. Có điểu ngay chính những vấn đề gai góc như vậy, tác giả vẫn đưa ra cái nhìn tinh tế dưới góc độ văn hóa, khiến ta ngạc nhiên. Hãy xem tác giả lý giải: “Thật ra câu chuyện văn minh đô thị ở đây không hể đơn giản. Trong mắt du khách thập phương và cư dân bản địa,

trong không ít trường hợp, chính hàng rong và hàng quán vỉa hè lại góp phẩn làm nên cái hồn của đô thị. Còn xét trên khía cạnh kinh tế thì mọi hàng rong và hàng quán vỉa hè đều gắn với những dân nghèo thành thị, giúp họ kiếm sống lương thiện hằng ngày”. Đây là cái nhìn thầu hóa được ý thức trách nhiệm của người làm công tác quản lý xã hội và sự thấu hiểu cội nguổn thần phận người dân cũng như đổng cảm với tâm lý du khách dựa trên tinh thẩn nhân bản. Hóa ra cái nhìn đó bao quát tất cả văn hóa đô thị người Việt trên mọi nẻo đường đất nước mà cái mẫu số chung của nó tạo nên hình hài có vẻ “nhếch nhác” ấy lại là tâm thức làng, và tại xứ Quảng tụ lại ở khái niệm “kéo ghế” mà tác giả cho rằng không phân biệt đẳng cấp chính quy hay vỉa hè.

Miên man tản mạn trên mọi vấn đề khiến cho người đọc ngỡ rằng dường như đấy chỉ là cuộc rong chơi của tác giả nhưng thực chất lại khá nhất quán trong suy nghĩ, quy tụ về một hướng nhận thức: người xứ Quảng luôn đau đáu vể tâm thức văn hiến bốn ngàn năm của người Việt xứ Đàng Ngoài nhưng lại sáng tạo phong cách mới trong muôn vàn nhọc nhằn mưu sinh của cuộc sống - sợi chỉ đỏ xuyên suốt đã tạo nên cái nhìn “đương đại” vừa trong sáng vừa tinh tế, hổn nhiên, trung thực của tác giả về di sản văn hóa của cha ông trên vùng đất xứ Qụảng.

Với tư cách người đọc, tôi chia sẻ mọi suy tư của người viết và hân hạnh được giới thiệu cuốn sách Văn hóa văn nghệ dân gian dưới góc nhìn đương đại đến với những ai cùng yêu thương và quan tâm tới xứ Qụảng. Tôi hy vọng mỗi người đểu có thể tìm thấy được điểu bổ ích từ cuốn sách của Bùi Văn Tiếng.

TS. Đỗ Quốc Hùng

(Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ chí Minh)