Trở về Màu tím hoa sim (*) - Nguyễn Minh Hùng

11.06.2019

MÀU TÍM HOA SIM

Hữu Loan

Nàng có ba người anh đi bộ đội

Những em nàng

Có em chưa biết nói

Khi tóc nàng xanh xanh.

Trở về Màu tím hoa sim (*) -   Nguyễn Minh Hùng

Tôi người vệ quốc quân

xa gia đình

Yêu nàng như tình yêu em gái

Ngày hợp hôn

nàng không đòi may áo mới

Tôi mặc đồ quân nhân

đôi giày đinh

bết bùn đất hành quân

Nàng cười xinh xinh

bên anh chồng độc đáo.

Tôi ở đơn vị về

Cưới nhau xong là đi

Từ chiến khu xa

Nhớ về ái ngại

Lấy chồng thời chiến chinh

Mấy người đi trở lại

Nhỡ khi mình không về

thì thương

người vợ chờ

bé bỏng chiều quê...

 

Nhưng không chết

Người trai khói lửa

Mà chết

Người gái nhỏ hậu phương

Tôi về

không gặp nàng

Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối

Chiếc bình hoa ngày cưới

thành bình hương

tàn lạnh vây quanh

Tóc nàng xanh xanh

ngắn chưa đầy búi

Em ơi giây phút cuối

không được nghe nhau nói

không được trông nhau một lần

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím

áo nàng màu tím hoa sim

Ngày xưa

đèn khuya

bóng nhỏ

Nàng vá cho chồng tấm áo

ngày xưa...

 

Một chiều rừng mưa

Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc

Được tin em gái mất

trước tin em lấy chồng;

Gió sớm thu về rờn rợn nước sông

Đứa em nhỏ lớn lên

ngỡ ngàng nhìn ảnh chị

Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí.

 

Chiều hành quân

Qua những đồi hoa sim

Những đồi hoa sim

Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết

Màu tím hoa sim

tím chiều hoang biền biệt

Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết.
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều
hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...

 

1. Văn bản tin cậy

          Toàn văn bản chép tay bài thơ Màu tím hoa sim có chữ ký của nhà thơ Hữu Loan (ghi ngày 12/10/2004) và có dấu đăng ký của Cục Tác quyền (ngày 19/10/2004) do Công ty cổ phần Công nghệ Việt (Vitek) vừa công bố đã hoàn thành thủ tục hợp đồng chuyển nhượng bản quyền với số tiền 100 triệu đồng. So với các bản đã in từ trước đến nay, bản mới đã có thay đổi ít nhiều. Vậy đâu là bản đáng tin cậy nhất?!

Bài thơ vừa công bố có một đoạn cuối do chính nhà thơ Hữu Loan bổ sung, mà theo ông, nó đã viết thêm từ rất lâu:

…Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt 
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết.
Nhìn áo rách vai
tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...

So sánh với bản thường lưu hành, ta thấy bài mới công bố có thêm mười bốn dòng. Mười bốn dòng thêm cho cái kết một bài thơ, đâu phải chuyện nhỏ!? Có thể do mấy nguyên nhân:

Theo Hữu Loan xác nhận, bài thơ được sáng tác ngay tại mộ người vợ trẻ, rồi được ghi vào chiếc quạt giấy; sau đó chiếc quạt được gửi lại nhà một người bạn ở Thanh Hóa; người bạn ấy đã chép lại và chuyền tay nhau suốt những năm tháng ấy. Chiếc quạt giấy bây giờ chắc là không còn. Việc chép lại, rồi chuyền tay nhau trong những năm tháng chinh chiến của hơn 50 năm trước, làm sao không có chuyện sai lệch?! Hoàng Cầm cũng từng không thể nhớ thật chính xác về toàn văn bài thơ Bên kia sông Đuống của mình…

Trong quá trình sáng tạo, hầu như rất hiếm có bài thơ nào được viết một mạch, không hề chỉnh sửa hoặc biên tập gì. Đất nước của Nguyễn Đình Thi là ghép từ hai, ba  bài thơ khác trước đó. Tràng giang của Huy Cận có nhiều cách chọn lựa ở khổ đầu và khổ cuối. Tống biệt hành của Thâm Tâm còn có thêm một khổ nữa…Cũng còn một lẽ, khi in sách báo hoặc lúc chép tay chuyền nhau, ai đó đã "biên tập" hoặc “lượt bớt” những dòng mà họ cho là…thừa trong đoạn kết. Thực tiễn tiếp nhận có khả năng chọn lọc văn bản theo cách đó.

Dẫu nguyên nhân nào chăng nữa, thì người đọc vẫn phải đối diện với một thực tế: Có ít nhất hai văn bản đang tồn tại. So sánh hai đoạn kết, rõ ràng là bản mới công bố tỏ ra dềnh dàng, kể lể mà không có sự đột biến hay âm vang vốn cần có cho một đoạn kết thơ. Giữa một văn bản của lòng mình và một văn bản của tác giả mới công bố, người đọc có quyền tiếp nhận theo cảm xúc riêng - một mỹ cảm vốn được hình thành và hoá thành dấu hằn ký ức từ hơn nửa thế kỷ cho một tác nghệ thuật. Mấy năm trước, có người muốn khôi phục lại khổ cuối cho Tống biệt hành (…Ly khách ven trời nghe muốn khóc…) nhưng không thể, bởi đối với người đọc, bài thơ cần phải dừng đúng ở dòng Em thà coi như hơi rượu say…Thơ như một hình ảnh không dịch chuyển của hoài niệm - nó là nó chứ không ai khác, không thể thêm bớt…

2. Số phận một bài thơ - một đời thơ

          Màu tím hoa sim  được xem là “một trong những bài thơ tình hay nhất của thế kỷ 20” và cũng là bài thơ có số phận nghiệt ngã nhất. Sau khi được công bố, bài thơ càng được người đọc đón nhận, yêu mến bao nhiêu thì tác giả của nó càng vướng vào bấy nhiêu hệ luỵ; từ đấy, cuộc đời riêng và cuộc đời nghệ thuật của Hữu Loan bỗng rẽ sang một bước ngoặt khác. Trong một thời gian dài, dễ chừng cũng trên dưới 30 năm, ở Miền Bắc, Màu tím hoa sim không được phổ biến, nếu không muốn nói là cấm in, cấm đọc. Tác giả của bài thơ sống lặng lẽ âm thầm, lao động cật lực để nuôi sống gia đình. Và có lẽ, từ đấy, người đọc dường như bị đánh mất cơ hội được tiếp tục chiêm ngưỡng một hồn thơ hào sảng, bi tráng, mới mẻ, đằm thắm của Hữu Loan - một hồn thơ có lúc đạt đến sự tổng hoà tinh anh giữa Phạm Huy Thông của Thơ mới, Hoàng Cầm và Quang Dũng trong những ngày đầu kháng chiến, một giọng thơ thô ráp mà tinh vi với kiểu bậc thang gân guốc mang dáng dấp  một Maiakovski. Lý do bài thơ không được phổ biến thật đơn giản: Đấy là thơ buồn, thơ mất mát, bi thương, không có lợi cho cuộc kháng chiến…Khi đã xem sự lợi hại trên hết vì cuộc kháng chiến, vì lợi ích của giai cấp, của một cộng đồng, thì cái đẹp có lúc không thể thoát khỏi số phận bi kịch.

          Nhưng con đường thơ từ một người đến muôn người lại có quy luật riêng của nó - thứ "quy luật phản quy luật". Màu tím hoa sim thay vì chìm vào quên lãng thì lại được cất giữ trong lòng người sâu kín hơn; thay vì công khai trên đài báo, trên sách giáo khoa thì nó lại “rút vào bí mật” để rồi băng qua con đường vốn là đại lộ của thi ca đích thực - lối đi của kẻ mang thông điệp từ một trái tim đến một trái tim, tưởng nhỏ bé mỏng manh lại hoá ra vàng đá. Cái gì còn sẽ còn nguyên - Cái gì tan ngỡ vững bền cũng tan…(Trần Đăng Khoa). Ở trường hợp này, không chỉ còn nguyên, mà bài thơ bỗng nhận thêm những giá trị, thêm những thử thách và thêm những che chở, thương yêu, bù đắp. Khi che khuất ánh sáng, hồng ngọc bỗng bất ngờ ánh chiếu một thứ màu sắc ảo huyền...Thử nghĩ ngược lại, nếu Màu tím hoa sim bình yên vô sự, thì chắc chắn, nó đã có một thân phận khác. Và trong trường hợp ấy, biết đâu, ta có một - Hữu - Loan - khác chứ không phải một Hữu Loan của Đèo cả, Những làng đi qua, Hoa lúa…và nhất là

Hữu Loan của Màu tím hoa sim...

3. Trong màu sim tím

Sức hấp dẫn của Màu tím hoa sim, trước hết như đã nói, là ở phần số có vẻ không may của nó. Nhưng để trở thành một trong những bài thơ đáng nhớ, không thể chỉ là chuyện rủi may.

Màu tím hoa sim lôi cuốn người đọc ngay từ hoàn cảnh sáng tạo: Cái chết đột ngột của người vợ trẻ ở hậu phương. Lê Đỗ Thị Ninh  (sinh năm 1932) vốn là học trò của Hữu Loan khi ông còn học Collège Đào Duy Từ ở Thanh Hóa. Rồi Hữu Loan ra Hà Nội học Tú tài. Tại đây, ông gặp lại cô học trò ngày xưa, và kết duyên vào năm 1948. Cưới xong đâu có mấy ngày, Hữu Loan phải tức tốc hành quân theo Sư đoàn 304. Mấy tháng sau ngày cưới, ông nhận được tin vợ bị nước cuốn trôi - Gió sớm thu về rờn rợn nước sông… 

Như phần đầu bài thơ đã kể, đôi vợ chồng trẻ không có được nhiều thời gian hạnh phúc của thời chiến chinh, họ cưới nhau xong là đi. Nhưng điều ngang trái là ở chỗ, không chết người trai khói lửa - mà chết người gái nhỏ hậu phương... Càng ngang trái bẽ bàng là nàng không chết vì bom đạn quân thù (lẽ thường trong thời chiến) mà chết vì một nguyên nhân khác. Nghịch cảnh phi lý ấy đã bộc phát sáng tạo thơ ca. Lời kể tự nhiên, vỡ oà, mê tưởng…réo gọi người đọc bằng cơn thống thiết của một tâm hồn giữa phút giây tuyệt vọng. Mà cái đẹp của sự tuyệt vọng lại chính là một trong những chân giá trị của nghệ thuật. Màu tím hoa sim, vì thế, như một một bức khốc văn đọc trước mộ người bạc mệnh, thiệt thà mà tài hoa, đắng cay mà đằm thắm, hát ca mà chứa chan nước mắt...Nó mang dáng vẻ hiện đại của thế kỷ chiến tranh thế giới nhưng lại tiếp mạch tự tình dân tộc theo kiểu một Phạm Thái - Trương Quỳnh Như. Người đọc không đọc theo thơ mà đọc theo lòng; bước lên nhịp cầu cảm thông niềm đau mất để đặt chân đến ngưỡng cửa sự chiêm bái cái đẹp bi ai. Không có hoàn cảnh riêng, biết có Màu tím hoa sim, biết có một Hữu Loan?! Hoặc có thể vẫn có một Hữu Loan, nhưng chắc không phải là người - của - màu - hoa - tím - ấy…Chính cuộc sống đã sáng tạo ra thi sĩ, và thi sĩ, không ai khác, mang lại cuộc sống cho thơ...

Hoàn cảnh sáng tạo là chiếc nôi đưa ru tinh thần nhân bản của bài thơ. Một thời, do ngộ nhận về chức năng và giá trị của văn học hoặc do sự cảm nhận chủ quan đã dẫn đến việc hiểu xuyên tạc nội dung tác phẩm. Cho rằng bài thơ lên án chiến tranh, thể hiện khát vọng hạnh phúc thông qua tiếng kêu xé lòng của lứa đôi trong bom đạn. Thực ra, Màu tím hoa sim muốn đề cập đến một khía cạnh khác của cuộc đời. Tất cả nằm trong “câu chủ đề” này:  

Nhưng không chết

Người trai khói lửa

Mà chết

Người gái nhỏ hậu phương

Vậy thì đâu phải chiến tranh?! Chiến tranh thì chết Người trai khói lửa chứ (Lấy chồng thời chiến chinh mấy người trở lại - Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi), hoặc chết cả hai người, sao lại chỉ chết người gái nhỏ hậu phương, mà lại chết đuối, không phải do giặc bắn em rồi quăng mất xác (Quê hương - GiangNam)?! Rõ ràng, cảm hứng Hữu Loan hướng về cái ngang trái bất thần giáng xuống lứa đôi, giáng xuống hạnh phúc con người,  cái nỗi cổ kim hận sự không ai lường được trong cõi người ta đầy bất trắc này, ở đâu cũng có và đời nào cũng không thể tránh khỏi!…Thế mới đau, mới không thể nào hiểu thấu, mới thấy những đồi hoa sim dài trong chiều không hết. Thế mới có thêm trong thi ca cái màu tím chiều hoang biền biệt bên cạnh màu quan san biệt ly một thuở…Và như vậy thì, nỗi đau ấy đâu chỉ gói gọn lại trong không gian thời chiến, trong phạm vi nhỏ hẹp của một đôi lứa yêu nhau, mà bài thơ còn thức gọi một ý nghĩa nhân sinh rộng lớn hơn rất nhiều. Do đó, nó đồng hành cùng con người.

Sau Màu tím hoa sim, ta thấy xuất hiện Núi đôi của Vũ Cao, Quê hương của Giang Nam - những bài thơ mà nhiều người cho rằng, cùng viết về một đề tài nhưng đã “vượt qua hạn chế về tư tưởng” của Màu tím hoa sim. Cả hai bài thơ vừa nói đều ảnh hưởng rõ ràng motype của Hữu Loan về đề tài, kết cấu, cách kể (yêu nhau - tôi đi bộ đội - em ở nhà chết - tôi về đau xót). Thực ra, hai bài thơ vừa nói đã đặt một vấn đề hoàn toàn khác với Màu tím hoa sim. Núi đôi và Quê hương thể hiện tình yêu gắn bó với tình đồng chí, hoà quyện với lòng căm thù và tinh thần chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc. Màu tím hoa sim không đặt vấn đề về tổ quốc, về tình đồng chí, về lòng căm thù giặc...Tác giả muốn khóc than bất hạnh để ca ngợi hạnh phúc muôn năm của con người, để vĩnh hằng hoá tình yêu.

Sức hấp dẫn của Màu tím hoa sim còn ở và chủ yếu là ở trong hệ thống nghệ thuật của bài thơ. Cả bài thơ là sự hồi tưởng qua giọng kể của chính tác giả. Tự nhiên mà chắt lọc, hơi thơ mãnh liệt nhưng liền mạch, không thấy gãy vỡ cấu trúc. Bài thơ như một vở kịch, như một cuốn phim được quay theo thủ pháp hồi nhớ có khả năng đan quyện cái đau với cái vui, niềm thương với nỗi tiếc, có diễn biến và cao trào, khiến người đọc cuốn theo cuộc nhân duyên ngắn ngủi của hai hình tượng - tôi và nàng. Thủ pháp ấy khiến liên tưởng đến kiểu điếu văn nhằm tạo ra âm điệu tưởng tiếc với trường cảm xúc cộng hưởng vô cùng. Giọng kể ấy lại gắn với kiểu câu thơ tự do rất mới lúc ấy, xuống dòng nhiều chỗ rất “tức” (gần giống như thơ bậc thang), góp phần làm cho ngôn ngữ kể như tiếng nấc, tiếng kêu uất nghẹn của kẻ đau thấu trời xanh…

Vẻ đẹp của bài thơ còn là cách sử dụng thủ pháp tương đồng - đối lập tạo hiệu quả nghệ thuật rất cao. Hữu Loan có năng lực thiên phú trong xâu chuỗi những nét tương đồng: Yêu nàng như tình yêu em gái (ân tình, nồng thắm), nàng không đòi may áo mới - tôi mặc đồ quân nhân (yêu thì chẳng câu nệ gì), ngày xưa nàng yêu hoa sim tím - áo nàng màu tím hoa sim - chiều hành quân qua những đồi sim (thương nhớ, thuỷ chung), nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa - nhìn áo rách vai - tôi hát trong màu hoa (nỗi đau mất mát)…Đặc biệt, các hình ảnh đối lập là sáng tạo độc đáo nhất của Hữu Loan, tạo sức gợi mạnh mẽ và có “độ không nói”, có “sự im lặng giữa các từ”, sự dồn nén cao ngất: Không chết người trai khói lửa - mà chết người gái nhỏ hậu phương (oan khiên), chiếc bình hoa ngày cưới - thành bình hương tàn lạnh vây quanh (trớ trêu), được tin em gái mất - trước tin em lấy chồng (ngang trái)…

Màu tím hoa sim là tình ca, không phải tráng ca. Bài thơ không viết về chiến tranh mà nói về thân phận con người. Mỗi lần đọc Màu tím hoa sim ta thấy lòng mình như dao cứa là nhờ Hữu Loan đã xuất thần góp một khúc đoạn trường nữa cho nền văn chương giàu nỗi nhân tình của đất nước Việt Nam. Màu tím hoa sim là một tài sản mỹ học, đó mới là một giá trị đích thực. Bỗng nhớ Joseph Brodsky (Nobel 1987): “Tài sản mỹ học của cá nhân càng giàu có bao nhiêu, thì khiếu thẩm mỹ càng vững chắc bấy nhiêu và quan điểm đạo lý càng rõ ràng hơn. Do đó, anh ta càng có tự do hơn, mặc dù cũng có thể, chưa chắc đã hạnh phúc hơn”.

                              

(*) Nguyễn Minh Hùng, Cảm nhận văn chương - Ngôi thứ tư số ít, NXB Văn nghệ - 2006, tác phẩm đạt giải A văn học thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2005 – 2010.