NHỮNG GÓC QUÁN CỦA THIÊN TÀI
HOÀNG ĐẶNG
Nếu không có tựa sách “Chân dung chàng nghệ sĩ trẻ tuổi”-đi cùng với lời bạt giới thiệu về “Một nhà văn lừng danh về chuyện la cà, lang bạt Người Ireland mà bạn rất dễ tìm gặp ông ta trong các quán bia ở Dublin, đó là James Joyce, tuổi 20, thời kỳ “xâm nhập thực tế” để viết sách – thì tôi không hề biết đến James Joyce cũng như không thể biết đến trên đời nầy có thứ bia mang tên Guinness mà nhiều người dân Ireland tự hào về đặc sản của nước họ và cho rằng đó là “Vị thuốc được pha trộn từ sửa với kem chỉ có ở thiên đường “!
Những ngày tháng lang thang bên ở xứ sở sương mù Ireland trong ký ức tôi tưởng chừng đã trôi phai theo thời gian bỗng chốc chúng ào ạt trở về cùng với thư của bà Maeve Collins, Đại sứ nước Cọng hòa Ireland mời đến dự buổi triển lãm về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn James Joyce tại Đà Nẵng, tháng 10.2008. James Joyce là bóng dáng lớn trên văn đàn thế giới ở thế kỷ 20, người cùng quê với bốn nhà văn, thơ và kịck đoạt giải Nobel văn học: William Butler Yeats, G. Bernard Shaw, Samuel B. Beckett và Seamus Heaney. Đời văn của họ cùng khởi nguồn từ một vùng đất mênh mông núi đồi và cỏ hoa trên những quần đảo lãng mạn bên bờ Atlantic.
Văn của nhà văn lãng tử James Joyce như đường dẫn tới một loại bia mang tên Guinness mà người dân Dublin ví von là “Vị thuốc của thiên đường’. Vì vậy, 65 năm sau, tính từ ngày James Joyce mất, khi vừa đặt chân lên thành phố Dublin, tôi đã vội vã đi tìm “Vị -thuốc -Thiên - đường” ấy.
Nhiều quán rựợu nhà hàng ở Dublin đều mang tên các nhà văn lớn. Tại mỗi nơi đó ta có thể xem những phim ảnh, sách báo về cuộc đời và sự nghiệp của mỗi tác giả. Chỗ tôi ngồi đầu tiên là góc sân đẹp, bàn ghế bằng gỗ sồi bình dị và tinh sạch bên cạnh bức tượng James Joyce trong bộ vét ghi-lê kiểu châu Âu, mũ nĩ ngang tàng đội lệch, tay cầm chiếc gậy mảnh, người dân Ireland thường gọi “Cây gậy châm chích” của nhà văn có khuôn mặt thông thái, hóm hỉnh và ý nhị. Quán mang tên bức tượng ấy. Ánh sáng trời vào khoảng tám, chín giờ tối ở Dublin y hệt trời hoàng hôn ở xứ mình. Bầu trời không hoàn toàn tối hẳn nhưng phố O’ Connell càng lúc càng thưa dần. Trời trở lạnh hơn, 10 hay 12 độ C thì phải. Tôi rời sân bước vào trong quán.Quán đông vui và ấm cúng. Bây giờ tôi mới thực sự hiểu ra người dân Ireland có rất nhiều giai thoại trái ngược trong lối sống: Sự hà tiện và ăn nhậu. Cẩn thận khi tiêu tiền nhưng hết mình và sòng phẳng khi nhậu. Hết phiên bạn mời, đến phiên mình.Cứ thế, hết “pint” (vại) nầy đến pint kia. Trên quầy bia có một phụ nữ, tóc nâu vàng, da trắng mịn, luôn luôn im lặng bằng nụ cười mĩm thấp thoáng, bỗng chốc, và hững hờ . Bia Guinness tươi được trữ ở đâu không biết chỉ thấy dòng bia sóng sánh màu nâu đen tuôn ra từ chiếc vòi nhỏ đặt trên quầy. Khi bia rót được lưng chừng vào chiếc ly vại, những ngón tay đẹp của người phụ nữ ấy nhẹ nhàng chuyển ly trống khác vào thay thế trong khoản thời gian vừa đủ cho ly bia trước tan hết bọt rồi trở lại rót tiếp cho đến khi vại bia đầy ngập. Dù nhiều quán bia ở Dublin đều có bán đủ loại nhãn mác thức uống bia, rượu nhưng mọi người bản xứ vào quán đều chọn Guinness, thứ bia chế biến gia truyền từ bao đời của dòng tộc của ông Arthur Guinness. Bọt bia đậm đặc phảng phất màu vàng hổ phách. Hương bia nhẹ và thơm. Trong ngọt ngào êm dịu khác lạ của men bia chen lẫn vị đắng quến rũ đến những lia bia sau.
Những ly bia kế tiếp xui giục người uống quyến luyến thêm bởi điệu đàn Banjo, tiếng nhịp vỗ trống và giọng hát nữ của một nhóm nhạc nào đó trong quán vừa bắt đầu-“ The wild Irish rovers”-những ca khúc đồng dao về núi đồi, làng mạc của những người con tít miền Tây Âu sương mù mang linh hồn lang bạt. Đường phố vào những lúc nầy quạnh vắng là phải vì tôi có cảm tưởng như , đêm đêm, nhiều người người dân Ireland đều tập trung ở quán, từ cô gái 18 cho đến ông già 78. Họ bắt đầu nhảy múa làm không khí quán rộn ràng, ấm cúng.
Những ngày tháng sau, rời khỏi Dublin, tôi đi đến nhiều nơi khác của xứ sở lãng mạng, thú vị nầy. Về vương quốc Kerry, quần đảo Dingle, xem những lễ hội dân gian ở Galway…Đâu đâu tôi cũng gặp hoa và bia. Cũng gặp thêm một vài quán xá , câu lạc bộ mang tên các nhà văn Samuel Beckett, Bernard Shaw… Cũng thứ bia nâu đen thơm nồng và ngọt ngào ấy. Cũng điệu trống vỗ và nhịp đàn xao xuyến Banjo trong các rượu của những người chơi nhạc lang bạt, giang hồ, với lối trình diễn tự nhiên, thân mật dễ gần.Xui tôi có nhiều khi chạnh lòng nhớ về quê xứ mình, về những hộp đêm hào nhoáng, kiểu cách. Những câu lạc bộ văn chương- văn nghệ buồn tẻ và thật tình không hề có thể gặp ở những nơi đó một bóng tượng hay chân dung như Nguyễn Du, Cao Bá Quát…
Tôi cũng đã chớm “ghiền” mùi thơm đậm đà của bia Guinness, “vị thuốc của Thiên đường” và đôi mắt xanh biếc trời Tây lấp lánh sau mái tóc vàng óng ả của thiếu phụ đơn chiếc trong thị trấn, đêm đêm cùng tôi hàn huyên trong quán ấm. Nhưng, có lẽ cũng như mọi kẻ lãng du khác, khi đã quen cảnh, quen người, khi thấy lòng mình đã chớm bịn rịn nơi chốn xa xôi nào đó thì cũng vừa đến lúc phải trở về.
H.Đ