Nam Trân, một khuôn mặt tài hoa của xứ Quảng - Huỳnh Văn Hoa
Năm nay 2017, kỷ niệm 110 năm ngày sinh (1907 - 2017) và 50 năm (1967 - 2017) ngày mất của Nam Trân, một nhà thơ, một dịch giả, một nhà văn hóa, một nhà giáo dục xuất sắc, đồng thời cũng là một người con ưu tú của xứ Quảng.
Nam Trân tên thật Nguyễn Học Sỹ, sinh 15 tháng 2 năm 1907 tại làng Phú Thứ Thượng, nay là xã Đại Quang,
huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam và mất ngày 21 tháng 12 năm 1967 tại Hà Nội, lúc 60 tuổi.
1. Nam Trân, từ ông quan Nam triều trở thành người nghệ sĩ mới
Quan sát cuộc đời Nam Trân, có thể thấy, những biến động của lịch sử vẫn không làm thay đổi con người và khí chất nơi ông. Vẫn một nhân cách trung thực, yêu quê hương đất nước, gắn bó sâu nặng với những cuộc đời dầm sương dãi nắng của nhân dân. Nam Trân vừa giống lại vừa không giống với Sergei Essenin (1895 - 1925), nhà thơ trữ tình Nga. Nghĩa là, ông không xa lạ với cách mạng, nói như Lev Trotsky, và đi với cách mạng đến cuối đời. Một con người nội tâm, mang tinh thần phương Đông, thấm đẫm chất Đường thi trong sống và sáng tạo. Vì thế, Nam Trân là nhà thơ lạ nhất trong các thi sĩ của phong trào Thơ mới. Lạ trong đời và lạ cả trong văn. Lúc còn nhỏ cho đến năm 12 tuổi, Nam Trân học chữ Hán và tập làm những lối văn trường ốc. Sau đó, ông vào học tại trường Quốc học, Huế, rồi trường Bưởi, Hà Nội. Học xong, ông có bằng tú tài bản xứ và đi làm Tham tá Tòa khâm sứ Huế, rồi làm Tá lý bộ Lại (tòng tam phẩm) và Thị lang bộ Lại (chánh tam phẩm), cuối cùng là Án sát tỉnh Bình Định.
Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tham gia kháng chiến, công tác ở Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Đại Lộc, rồi tỉnh Quảng Nam, làm Chánh văn phòng Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu V. Nhập vào hàng ngũ những người làm văn nghệ đất Quảng và Liên khu Năm, ông tham gia sáng tác và từng làm Chủ tịch Ban Đại diện văn hóa kháng chiến Khu Năm, dịch số truyện Xô viết ra tiếng Việt như Người Xô Viết chúng tôi của Boris Polevoy (1918 - 1981). Nhà văn Nguyễn Văn Bổng (1921 - 2001) nhớ lại:
“Qua bản dịch của Nam Trân, hình ảnh những người Xô Viết từ trong tác phẩm của B. Pôlêvôi như một ngọn gió trong lành đến với người Việt Nam ở Quảng Nam, ở Liên khu 5, góp phần tiếp sức cho cuộc chiến đấu gian nan và ngoan cường của dân tộc ta trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp”. Sau này, tập Người Xô Viết chúng tôi (Nam Trân cùng các dịch giả khác) đã được in lại tại Nxb Văn học, Hà Nội, 1977.
Sau 1954, ông tập kết ra Bắc, tiếp tục tham gia hoạt động văn nghệ. Nam Trân là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam. Tại Hội nghị thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (5/1957), Ban Chấp hành được bầu ra 25 người, gồm: Nông Quốc Chấn, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Đình Thi, Tú Mỡ, Anh Thơ, Mộng Sơn, Cầm Biêu, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Huy Tưởng, Hoàng Cầm, Sao Mai, Tố Hữu, Hoàng Tích Linh, Nguyên Hồng, Bửu Tiến, Xuân Diệu, Đoàn Giỏi, Phạm Huy Thông, Tế Hanh, Nam Trân, Vũ Tú Nam, Hoàng Trung Thông, Xuân Miễn, Tô Hoài, Nguyễn Tuân.
2. Nam Trân, thi sĩ của không gian Huế
Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân chọn 46 nhà thơ và tuyển 169 bài thơ, thì Nam Trân có 7 bài, số lượng bằng với Thế Lữ, Hàn Mặc Tử: 7 bài, chỉ sau: Nguyễn Bính, Chế Lan Viên: 8, Quách Tấn: 9 bài, Lưu Trọng Lư, Huy Cận: 11 bài và Xuân Diệu nhiều nhất: 15 bài. Cũng trong Thi nhân Việt Nam, có 4 nhà thơ gốc Quảng, gồm Hằng Phương tuyển 1 bài, Phạm Hầu: 2 bài, Xuân Tâm: 2 bài và Nam Trân: 7 bài. Thống kê này cho thấy cái nhìn và đánh giá của các tác giả Thi nhân Việt Nam.
Nam Trân đã có thơ đăng trên các báo và tạp chí, như: Nam phong tạp chí, Văn học tạp chí, Tràng An, Sông Hương, Thanh Hóa, Tân Tiến (Sa Đéc),... Tác phẩm chính của ông: Huế, Đẹp và Thơ (1939).
Nam Trân là nhà thơ xứ Quảng, mang tâm hồn, khí vị đất thần kinh, vì thế, qua Huế, Đẹp và Thơ, ông được tặng danh hiệu “thi sĩ của xứ Huế”. Hoài Thanh nhận xét: “Tả cảnh Huế chưa ai bằng Nam Trân... Thiết tưởng vì tình láng giềng đất Quảng Nam không thể gửi ra xứ Huế món quà nào quí hơn nữa: lần thứ nhất những vẻ đẹp xứ này được diễn ra thơ”. Chất Huế bàn bạc trong thơ Nam Trân, tạo nên thần sắc về cảnh trí xứ Huế. Thoáng những trầm tư lịch sử. Hư huyền và mờ ảo khói sương. Đó là: “Êm êm dòng nước Hương Giang chảy”, là tiếng chuông chùa Diệu Đế: “Theo trăng bóng vạc về rừng/ Sương thu phủ kín mấy từng thành xưa/ Bến sông thuyền ngủ lưa thưa/ Tiếng chuông Diệu Đế gió đưa lại gần”. Đó là mùa đông trên cánh đồng An Cựu: Ôi! đìu hiu/ Cánh đồng/ Cảnh chiều/ Đông!/ Ruộng ngập mênh mông/ Nước phẳng/ Cò bay, yên lặng/ Quanh đồng... Đó là: Trên núi Ngự Bình/ Gió chiều hiu hắt/ Nhạc thông díu dắt/ Như khúc phong cầm/ Cô em vừa tuổi cài trâm/ Nẻo sim lững thững đi tìm xác hoa/ Ngây thơ đâu nữa mà vờ!... Đó là cảnh mùa hè ở Huế: Đủng đỉnh chiếc thuyền nan/ Qua, lại bến sông Hương.../ Tiếng đờn chen tiếng hát/ Thánh thót điệu Nam Bường... Đặc biệt, bài Đẹp và Thơ (Cô gái Kim Luông). Bài thơ này có mặt trong hầu hết các tuyển tập thơ về Huế. Nói đến xứ Huế, không thể nào không nói đến cảnh và tình của vùng đất Kim Long, một nơi tương truyền liên quan đến hai câu thơ của vua Thành Thái. Như tên gọi, cả bài thơ là một khúc ca đẹp, duyên dáng, tinh tế và thơ mộng:
Thuyền nan đủng đỉnh sau
hàng phượng
Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo
Tôi xuống thuyền cô, cô chẳng biết
Rằng Thơ thấy Đẹp phải tìm theo
Thuyền qua đến bến; cô lui lại
Vẫy chiếc chèo ngang: giọt nước gieo
Đăm đăm mắt mỏi vì chèo
Chèo cô quẩy nước trong veo
giữa dòng
Biết không? Cô hỡi, biết không?
Chèo cô còn quẩy, sóng lòng còn xao?
Trong 50 bài thơ của Huế, Đẹp và Thơ, phần lớn là những bài viết về con người và cảnh vật xứ Huế, đầy thi vị: Cô gái Kim Luông, Vườn cau Nam Phổ, Huế mưa dầm, Núi Ngự, sông Hương, Trước chùa Thiên Mụ, Mùa đông, cánh đồng An Cựu, Cảnh quê, Huế ngày hè, Huế đêm hè, Giận khúc Nam ai, Trên Núi Ngự, Tiếng chuồng Diệu Đế,... Trong một bài thơ, gửi người bạn Nam Bộ, Nam Trân viết: Anh đã đến Huế rồi / Anh đã biết Huế chưa / Ví đã biết Huế rồi / Thì đã hiểu Huế chưa ? / Hiểu rồi cũng ngỡ là chưa / Mà chưa nào biết rằng chưa hay rồi / Ra đi lòng những bồi hồi / Biết chăng? Chẳng biết rằng rồi hay chưa / Huế tôi cảnh đẹp như mơ / Đế đô là một bài thơ muôn vần... (Núi Ngự sông Hương)..
3. Nam Trân, một dịch giả tài năng
Năm 1959, Nam Trân về công tác tại Viện Văn học, chuyên về dịch thuật. Ông cũng là một trong những người có công mở lớp đại học Hán Nôm đầu tiên ở miền Bắc, do Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức, đồng thời tham gia giảng dạy.
Nam Trân còn có bút danh là Tương Như, người tuyển và tham gia dịch Thơ Đường (tập 1, tập 2, do Nxb Văn học in và tái bản nhiều lần), Thơ Tống, Thơ văn Lý Trần, Thơ Quách Mạt Nhược.
Dịch thơ, lại là thơ Đường, vốn là một việc không dễ, có thể nói vô cùng khó khăn. Nghiêm Phục (1853 - 1921) từng đặt ra 3 tiêu chuẩn của công việc dịch thuật. Đó là: Tín - Đạt - Nhã. Chuyển nghĩa một văn bản nghệ thuật, nỗ lực lắm có khi chỉ đạt 70, 80 % về nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm. Dịch thơ Đường từng có những nhà thơ, nhà văn nổi tiếng như Phan Huy Vịnh, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Ngô Tất Tố, Trúc Khê, Nhượng Tống, Trần Trọng Kim, Khương Hữu Dụng, Hoàng Tạo, Doãn Kế Thiện, Quách Tấn,... Nay, có thêm một Nam Trân. Các bản dịch của ông về thơ Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Trần Tử Ngang, Lạc Tân Vương, Vương Bột, Vương Xương Linh, Lý Ước, Vi Ứng Vật, Lưu Trường Khanh, Vương Chi Hoán, Đỗ Phủ,... là những công trình nghệ thuật, tài hoa, chuẩn mực, đứng vững với thời gian.
Những bài thơ của Đỗ Phủ, Lý Bạch, Vương Duy được tuyển chọn và giảng dạy trong chương trình ngữ văn phổ thông là bản dịch thơ của Nam Trân, như Vọng Lư Sơn bộc bố (Xa ngắm thác núi Lư), Tĩnh dạ tư (Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh) của Lý Bạch, Đăng cao (Lên cao) của Đỗ Phủ, Điểu minh giản (Khe chim kêu) của Vương Duy.
Đặc biệt, Nam Trân là người vừa chủ trì vừa dịch Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù) của Hồ Chí Minh ra tiếng Việt, xuất bản lần đầu năm 1960. Bản dịch của Nam Trân, như Tố Hữu nhận xét, “Việc dịch tập Nhật ký trong tù là cực khó. Vì ngoài kiến thức uyên thâm về Hán học ra, người dịch phải là nhà thơ thì mới mong dịch thơ Bác thành thơ cho có hồn được. Chỉ có anh Nam Trân có đủ hai mặt này”.
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi nêu nhận định về những trang bản thảo khi dịch Ngục trung nhật ký mà Nam Trân để lại: ”Chính là lương tri của một người dịch có trách nhiệm, hơn thế nữa cảm xúc tinh tế của một nhà thơ muốn tìm bằng được những câu, những chữ truyền đúng cái hay của nguyên tác, đã thôi thúc sự lao động nghệ thuật miệt mài của Nam Trân”.
Nam Trân là nghệ sĩ đa tài, một nhà thơ, một nhà văn hóa xuất sắc, một trí thức yêu nước. Năm 2017, kỷ niệm 60 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957 - 2017), tưởng nhớ Nam Trân là tưởng nhớ một con người suốt một đời phấn đấu cho cái đẹp của văn học nước nhà, truyền thụ cái tinh tế của văn hóa phương Đông, góp phần đào tạo nhiều chuyên gia Hán học cho các ngành khoa học xã hội Việt Nam.
H.V.H