1. Những biểu tượng độc đáo về thiên nhiên và con người
Bùi Giáng làm thơ để khôi phục lại tiếng nói ban sơ của loài người. Ông muốn biến ngôn ngữ - ký hiệu trở lại thành ngôn ngữ - sự vật, biểu tượng đầu tiên gây ấn tượng nhất là mùa xuân. Xuân không dừng lại ở cảm thức một mùa trong năm hay khoảnh khắc thời gian, xuân trong thơ Bùi Giáng mang ý niệm về sự vô tận, khơi dòng sự sống, gọi là: nguyên xuân:
Thưa rằng ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu nguyên xuân
(Mưa nguồn)
Xuân còn mở rộng biên độ thành vùng không gian, xuân là quê của em Mọi, của đười ươi, những hình hài sơ khai của con người trong thuở hồng hoang. Mật độ chữ xuân dày đặc trong tập Mưa nguồn (1962), điểm xuyết thấp thoáng sau này với Lá hoa cồn (1963). Trong đó, hai câu thơ nổi tiếng sớm nhất:
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau
Miên trường phải chăng là một giấc chiêm bao giữa cuộc đời. Dòng thơ ám ảnh bởi sức sống thanh tân, khát khao gợi mở. Tập thơ Mưa nguồn đúng như tên gọi, là thơ của ngày tháng thanh xuân rong ruổi nên hình ảnh thơ tươi tắn, sống động, giọng điệu thơ thiết tha với đời, dù đã bắt đầu vắt sang mộng ảo:
Những nhành mai sớm sương bên lá
Những nhành liễu chiều gió bên cây
Cũng lây lất bởi đời xuân em ạ
Thế nên chi anh cũng viết dòng này
(Những nhành mai)
Con người hiện đại có lẽ mẫn cảm hơn với thời gian và mùa xuân. Vì thời gian tuyến tính đã qua không bao giờ thắm lại nên họ khát khao níu giữ bước chân nàng xuân. Trong Mưa nguồn, mùa xuân cũng như bản thể vốn có, tự thân nó đã lấp lánh ánh sáng và rực rỡ sắc màu hoan lạc. Thơ Bùi Giáng ăm ắp xuân trần gian, tâm xuân, triều xuân, thư xuân, nắng Nguyên Đán, nắng xuân xanh, cỏ hoa hương, chồi nhú lộc, đất mở thênh thang, hoa nghiêng đầu ríu rít cạnh chim kêu… Bùi Giáng cũng lạc vào quỹ đạo của thi nhân muôn đời, gắn kết xuân với tình yêu.
Thơ Xuân Diệu bát ngát vườn xuân, hương tình ái, rất mực điển hình cho sắc thái nhục cảm: “Của ong bướm này đây tuần tháng mật. Này đây hoa của đồng nội xanh rì… Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” (Vội vàng). Thơ của Bùi thi sĩ, nguồn xuân lai láng như chảy tràn ra từ cội nguồn trinh bạch. Ở biểu tượng này, Bùi Giáng gặp gỡ Hàn Mặc Tử. Người thi sĩ của Đau thương ấy dựng thơ bằng biểu tượng: xuân như ý, miền Đao Ly, trời Đâu Xuất, Ngôi Hai Thiên Chúa, vòng triều thiên rực rỡ trên Thánh Mẫu đồng trinh… Nếu thơ Hàn Mặc Tử xuân vừa thấu suốt nét trinh nguyên, vừa pha màu tôn giáo sáng láng, bất tuyệt cứu rỗi con người thì thơ Bùi Giáng giàu chất mộng ảo nhưng không quá siêu thăng mà vẫn trong sáng, tinh khôi: “Vòm nguyên tiêu rơi rụng giữa trăng rằm/ Mùa xuân, từ đó, là mộng ảo âm thầm”. Tại sao Bùi Giáng lại kết nối mùa xuân với nguồn cội, tìm ra tính biện chứng giữa xuân thiên nhiên và chất sơ ngộ của loài người. Xuân là biểu tượng cho sự khởi đầu, mang đến không khí thanh sạch tẩy trần con người. Trong vòng tuần hoàn của tạo hóa luân chuyển bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, nếu xét về đặc tính cảm quan thì mùa hạ nóng bỏng, đầy nhiệt năng dễ thiên về tính dương cực; mùa thu dịu khí, trong lành có tính âm nhưng ở cấp độ nhẹ; mùa đông giá buốt, lạnh lẽo tính hàn cao, âm tính mạnh. Có lẽ chỉ mùa xuân là biểu trưng cho suối nguồn tinh khiết nhất, không nghiêng về khí chất nào cực đoan.
Nhan đề tập thơ của Bùi Giáng là Mưa nguồn cũng đầy sức ám gợi. Quê hương Bùi Giáng thuộc vùng Trung Phước, miền trung du xứ Quảng. Đã từng có khoảng thời gian ông sống cuộc đời hoang dã như Tô Vũ chăn dê nên có lẽ mưa nguồn không hề xa lạ. Nguồn có nghĩa là nguồn cội, nguồn sống, con người trở về với bản thể - bản thể uyên nguyên. Đó là thế giới của hỗn mang, sơ nguyên, thuở xưa, nghìn xưa, ngàn năm; là cội nguồn thiên nhiên, vạn vật trinh nguyên, trong lành qua hình ảnh của đất, trời, sông, suối, núi, rừng: Nghe trời đổ lộn nguyên khê, Nguyên tuyền đổ rộng xuống dòng thiên thâu, Nước xuôi giòng là cổ độ nhìn theo, “Ô vạn vật vẫn chờ nguồn nước lũ/ Tự ngàn năm tuôn dạo tự khe rừng”. Thiên nhiên trong sáng tác của Bùi Giáng thể hiện một tính chất nguyên sơ, khó ai sánh kịp với cách đặt nhan đề: Sa mạc phát tiết, Sương bình nguyên, Trăng châu thổ, Đường đi trong rừng, Mưa nguồn, Lá hoa cồn, Ngàn thu rớt hột, Màu hoa trên ngàn…
Con người trong Mưa nguồn và Lá hoa cồn hiện hữu trong dáng vẻ sơ khai với đười ươi, “mọi nhỏ” hoặc trong dáng vẻ hiện đại nhưng mang hồn du mục cũ nên thường xuất hiện sầu nguyên sơ; nguyên sơ đầu mộng, nỗi chờ trông hay trùng phùng đều gắn với xuân ngọn nguồn: “Chờ nhau ngõ khác ngó màu nguyên xuân”, “Là trùng ngộ giữa hương màu nguyên xuân”… Từ đó, “tinh thể của ngôn ngữ sơ nguyên” cũng được phô bày qua việc gọi tên thế gian, vạn vật, con người… Bóng dáng cô Mọi trong cảm hứng về khí chất mùa xuân, sự khởi đầu của thế giới thiên nhiên, là lốt áo đầu tiên của người nữ. Em Mọi còn có tên là Gái Núi, hay Duồng Mô Din “là một ẩn dụ hữu cơ trong thơ Bùi Giáng, và có khả năng cấu trúc thi hứng như một hình ảnh Đầu Nguồn, một Sử Lịch sơ khai, một Suối Xuân diễm tuyệt” (2).
Em từ Mọi Nhỏ thanh tân
Mười hai con mắt thiên thần mở ra
(Mười hai con mắt)
Bóng dáng của nường Mọi Nhỏ không hề cố định, đóng khung trong một thân thể mà vận động, biến hóa thành nhiều dạng vẻ khác nhau. Khi là người con gái hoang dại bên bờ cỏ Phi Châu, khi lại ẩn nấp mình trong kiểu cô gái bản Thượng mê hoặc trong nụ cười sơn cước. Dù biến thể phong phú nhưng tựu chung lại, cô Mọi là một hạt nhân của xã hội nguyên thủy, khởi đầu thiên tính nữ cho loài người. Soi mình vào hình ảnh Mọi, ai cũng nhận ra một phần bản thể con người mình trong đó.
Đã có người nữ Mọi thì cũng xuất hiện một cực thể tương ứng, đối tượng ấy là Đười Ươi, một lốt vỏ khởi đầu chưa tiến hóa thành người. Ông giày vò mình trong hình hài đười ươi, nhiều lần tự nhận mình là Đười Ươi thi sĩ:
Em về giũ áo mùa sa
Tiến trình vạn lý anh là đười ươi
Em về giũ áo đười ươi
Trút quần phong nhụy cho người phụ nhau
(Chiêm bao 7)
Bùi Giáng coi cuộc đời như một cuộc rong chơi. Thi nhân sống đời lang bạt, không nương náu dưới một mái nhà. Còn thơ như cuộc hý lộng ngôn từ, lắm khi ông đùa giỡn vui vẻ thập thành nhưng riêng chữ đười ươi ông dùng “hoàn toàn nghiêm túc chứ không mảy may cợt đùa” (3). Thân phận đười ươi tuy có chút ngậm ngùi, xót xa nhưng khoảnh khắc ban sơ ấy rất giá trị bởi khi chưa giũ áo đười ươi thì con người sống ngây thơ, hồn nhiên, không vướng vào vòng tục lụy. Đây cũng là quy luật trong ngộ đạo. Trải qua bể dâu thăng trầm, khi đã thấu thị cõi người đầy hoen ố, lẽ thường, chúng ta đều muồn trở về với cội nguồn lúc sơ sinh.
2. Bút lực thơ Bùi Giáng - một dòng chảy siêu thực
Nếu chỉ dừng lại ở khí chất tượng trưng độc đáo, thơ Bùi Giáng không tiêu biểu cho tinh thần hiện đại, trong khi đó với năng lực ngôn ngữ siêu tuyệt đến mức được mệnh danh là Tề Thiên chữ nghĩa và phong cách làm thơ bát ngát, Bùi Giáng là một minh chứng cho lối viết tự động của chủ nghĩa siêu thực. Andre Breton thế kỷ XX đã chủ trương một số lý thuyết nhận diện bản chất siêu thực, mà yếu tố đầu tiên là cách viết như dòng chảy vô thức. Bùi Giáng làm thơ tự nhiên như sự sống, không cần nhọc nhằn phu chữ hay uốn nắn thôi xao mà thơ tuôn ra dào dạt, bất tận. Nhiều thi sĩ, trí thức Sài Gòn cùng thời với ông như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Tạ Tỵ… khi hồi tưởng những kỷ niệm về ông đều thán phục sức sáng tạo dị kỳ của Bùi Giáng. Ngay cả số lượng tác phẩm thơ ca, tiểu luận triết học, phê bình, dịch thuật Bùi Giáng cũng thuộc vào hàng thượng thừa. Đến ngày nay, những trước tác ấy vẫn được tái bản đều đặn. Khám phá thơ Bùi tiên sinh chúng ta không thể đi vào một vài bài hay một số câu tuyệt bút được. Đọc thơ Bùi Giáng cần lĩnh hội ở chiều kích tổng thể, kết hợp cùng triết học luận giải về hiện tượng học, có khi chạm ngõ vào siêu hình Phật giáo. Nhà văn Mai Thảo từng ngợi ca thi tài ông: “Bùi Giáng đã đem lại cho cuộc đời biết bao nhiêu châu ngọc. Bằng tài thơ trác tuyệt. Bằng cõi ngôn ngữ ảo diệu, vô tiền khoáng hậu. Có ông, thi ca mới đích thực có biển có trời” (4). Bức tranh toàn cảnh về văn học miền Nam 1954-1975 được bao bọc với một hệ thống triết thuyết hiện đại: siêu thực với Andre Breton và phong phú nhất là chủ nghĩa hiện sinh với S.Kiekegaard, F.Nietzsche, J.P.Sartre… Con người nhận ra cuộc sống đang lên cơn xáo trộn đầy phi lý. Cảm thức tha hóa, phi nhân thấm sâu trong sáng tác. Bùi Giáng cũng bị vây khốn bởi cảm quan ấy nhưng theo một cách khác. Ông làm thơ là một cách để phản ứng với thế cuộc:
Sao bằng riêng một biên thùy
Cõi điên vũ trụ tùy nghi tung hoành
Xiết bao vô ngại ngọn ngành
Chọc trời khuấy nước tan tành thịt xương
(Sao bằng)
Trong Truyện Kiều, đại thi hào Nguyễn Du xây dựng hình tượng Từ Hải có sức mạnh phi thường đã công phá vào bức tường thành phong kiến thì Bùi Giáng cũng chuyển hóa tinh thần cái thế ấy khuynh đảo thơ ca.
Ngay cả một bài thơ nổi tiếng nhất của ông là Tặng Mã Giám Sinh, thần hứng đến mang mang niềm nghi hoặc:
Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên là một hai ba
Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm
Vận ý từ Truyện Kiều nhưng Bùi Giáng tạo ra độ nhòe mờ về con người, về không gian. Đích thực đây là một bức chân dung tự họa. Tên của thi sĩ là bể dâu hay thương hải tang điền, làm sao có câu trả lời chính xác. Chỉ biết rằng nó biến thiên, vật đổi sao dời như thân phận long đong, đa đoan của kiếp người. Còn quê hương, cũng là cội nguồn đấy nhưng xa xôi, diệu vợi. Tất cả đều nằm trong lẽ biến dịch, hưng vong không có gì là mãi mãi. Nếu học thuyết của F.de Saussure, Roland Barthes cho rằng ngôn ngữ mang tính ký hiệu, bao gồm hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt thì thơ kiểu Bùi Giáng đã xóa nhòa đường biên ấy. Ngôn ngữ thơ Bùi Giáng hoàn toàn mang tính chất tự trị. Vấn đề nghĩa không còn giá trị bởi lẽ thơ tiệm cận vào hư vô. Dòng chảy của suy niệm đồng hành cùng ngòi bút. Từ ngữ chuyển động không ngừng nghỉ, chữ này vừa xuất hiện thì chữ khác đã tuôn trào thay thế. Nhà thơ siêu thoát vào cõi chiêm bao, nhiều khi mê loạn tâm trí:
Đạp thanh vẽ bóng lộn mầu
Góp dâng cữ gió nghiêng đầu sương mây
(Màu hoa trên ngàn)
Con người hay thực thể ta dù hiện hữu hay lụi tàn thì cũng là vô nghĩa bởi số mệnh phù du, cuộc đời ảo giác:
Trần gian rộng rộng hơn nhiều nữa
Mênh mông hơn và bát ngát mây hơn
(Mùa thu trong thi ca)
Lạc giới vào cõi phiêu bồng nên bản thân thi sĩ không thể minh định được về sự tồn sinh của mình, Bùi Giáng lại nhận về nỗi cô đơn, sầu héo: “Ngàn năm độc đối riêng hàng/ Tờ xanh ứa lệ đẫm trang xuân đầu”(Khởi từ). Những giây phút đối diện đàm tâm, thi sĩ tiết chế những hoài nghi siêu hình, thơ vì thế mà đời hơn: “Chợt mùa thơ vội đổi dòng/ Cỗi nguồn cũng bởi tự lòng mà ra” (Từ bấy tới nay).
Ngôn từ thơ Bùi Giáng là kết quả của ảo giác hay nói đúng hơn được sản sinh từ giấc chiêm bao: “Hỗn mang về giữa hiên nhà/ Bây giờ cố quận tên là chiêm bao” (Rượu uống), “Người nằm ngủ thấy gì/ Thấy thật nhiều nắng lạ” (Mưa nguồn). Trong điệp trùng lớp sóng từ ngữ, Bùi Giáng sáng tạo đến tận cùng, góp phần lạ hóa hình ảnh thơ: lá hoa cồn, ngày Hy Nga, đêm bé chị, mọi trên ngàn, sóng Hồng Hoang, thềm dục vọng, miên trường, sa mạc phát tiết, ngàn thu rớt hột, mình mẩy, Như Lai sầu thảm, thân thể máu me và da xương… Thơ phiêu diêu thần diệu như cánh chuồn, cánh bướm nơi đồng nội nhưng cũng lấp lánh nhiều ẩn mật cổ điển, đầy trang trọng.
Trước di sản đồ sộ của Bùi Giáng, chúng ta mới chỉ bước vào cánh cửa đầu tiên trong muôn lối mê cung. Bản thân Bùi Giáng luôn chủ trương làm thi sĩ không khác gì một cuộc rong chơi nhưng nhiều năm tháng tỉnh mê, Bùi Giáng đã để lại cho hậu thế một dòng chảy thi ca vừa thấm đượm nguồn mạch Đông phương vừa ôm chứa tinh thần thời đại. Thơ Bùi Giáng đến hôm nay vẫn có chỗ đứng riêng trong lòng người yêu thơ.
____________
1, 4. Mai Thảo, Một vài kỷ niệm với Bùi Giáng, Bùi Giáng trong cõi người ta, Nxb Lao động, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2012, tr.146, 241.
2. Đặng Tiến, Bùi Giáng, nguồn xuân, Thơ thi pháp và chân dung, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 2009, tr.33.
3. Thanh Thảo, Tôi gặp Bùi Giáng, Bùi Giáng trong cõi người ta, Nxb Lao động, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2012, tr.293.