Cái nhìn về chiến tranh trong thơ vùng đô thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1975

11.03.2025
Mai Bá Ấn
Hướng tới tổng kết 50 năm văn học Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (1975 - 2025), trên tinh thần hòa giải, hòa hợp, gạn đục khơi trong, khơi tìm di sản, chúng ta cùng đọc lại những vần thơ được viết nên bởi chính nỗi đau của những người trong cuộc ấy.

Cái nhìn về chiến tranh trong thơ vùng đô thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1975

Do thời cuộc chiến tranh, đất nước bị chia cắt, đa số các nhà thơ sáng tác trong vùng đô thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 đều đã từng bị bắt buộc tham gia cầm súng cho “phía bên kia”. Tuy nhiên, do là những trí thức, có tinh thần tự tôn dân tộc, chán ghét chiến tranh, căm thù ách ngoại bang nên họ nhận thức rất sâu sắc về bản chất của cuộc chiến tranh. Cầm súng tham gia cuộc chiến, nhưng họ biết đó là một cuộc chiến phi nghĩa, nên có một cái nhìn về chiến tranh hoàn toàn khác với những nhà thơ - chiến sĩ của dòng thơ ca cách mạng, kháng chiến (cầm súng với ý thức tự giác, đánh đuổi ngoại xâm, thống nhất nước nhà với một niềm tin tất thắng dù biết sẽ trải qua nhiều gian khổ, hi sinh).

Nhìn về cuộc kháng chiến chống Mỹ của toàn dân tộc, các nhà thơ - chiến sĩ của thơ ca cách mạng, kháng chiến phản ánh rất rõ nỗi đau thương do kẻ thù gây ra, đi liền với lòng căm thù giặc và một lý tưởng chiến đấu bất di bất dịch. Ở phía ngược lại, các nhà thơ vùng đô thị miền Nam thể hiện nỗi đau chiến tranh qua nỗi buồn thế cuộc cùng với cái nhìn chán chường, bế tắc.

Hướng tới tổng kết 50 năm văn học Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (1975 - 2025), trên tinh thần hòa giải, hòa hợp, gạn đục khơi trong, khơi tìm di sản, chúng ta cùng đọc lại những vần thơ được viết nên bởi chính nỗi đau của những người trong cuộc ấy.

1. Cái nhìn đau buồn về cuộc chiến

Sau thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), hiệp định Giơnevơ được ký kết, đất nước phải chia làm hai miền. Miền Bắc hòa bình, bắt đầu công cuộc dựng xây đất nước và chi viện cho miền Nam làm cuộc kháng chiến chống Mỹ. 21 năm chia cắt, người Việt cả hai miền đều đau buồn, đều hướng về nhau. Trong khi các nhà thơ miền Bắc dù đau thương vẫn vững tin về một non sông thống nhất, vẫn phân định rõ ràng hai màu cờ của đất nước cắt chia: Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị/ Tận chân trời mây núi có chia đâu/ Cờ Tổ quốc gọi tâm hồn trong gió/ Như mặt trời rực đỏ như lấp lánh sao vàng/ Bên kia sông không ra vàng ra đỏ/ Cờ ba que hoen ố cả không gian (Tế Hanh - Nói chuyện với sông Hiền Lương) thì các nhà thơ vùng đô thị miền Nam cũng buồn đau trước cảnh chiến điêu tàn khi đứng bên bờ giới tuyến. Nhưng cũng chỉ dừng lại ở “đôi lá cờ phơ phất đôi bờ sông” và cái vạch cắt phân chia giới tuyến đớn đau trên “nhịp cầu vĩ tuyến”. Cờ chẳng buồn bay, cả đất trời tê tái: Quảng Trị buồn vào giấc ngủ đêm đông/ Với thành quách điêu tàn phơi gạch nát/ Đường ra Hiền Lương mịt mù gió cát/ Đôi lá cờ phơ phất đôi bờ sông/ Tôi đến đây nhìn nước chảy một dòng/ Màu xanh đỏ phân nhịp cầu vĩ tuyến/ Gót độc hành đến đây nửa chuyến/ Nửa con đường chữ S dứt nơi đâyGió không lên cờ chẳng buồn bayCho tê tái đất trời bỡ ngỡ (Kiên Giang - Nửa con đường chữ S).

Trong mắt nhìn của các thi sĩ miền Nam, sự cách chia hiện lên với tất cả những buồn thương, tang tóc, nhắc đến quê hương, chỉ nghe tiếng lòng thổn thức:

Quê hương mơ hồ mắt mỏi trông

Vì sao thổn thức mãi trong lòng

Chín năm đã quá nhiều tang tóc

Anh bên này em bên kia sông

(Hoàng Bảo Việt - Sao là nhớ)

Cũng là đường ra trận, nhưng đường ra trận của người lính “phía bên kia” xơ xác lá vàng, heo may rét buốt, bóng dáng xanh xao của những em bé và mẹ già đang run sợ dưới những tràng súng nổ: tôi cũng đang đi đây/ ôi đường dài xơ xác!/ lá vàng, heo may/ bóng dáng xanh xao/ những em bé ăn mày/ những người anh/ máu chảy cả đôi tay/ chiều chiến tranh/ những mẹ già run sợ/ vì tiếng súng cối xay (Quách Thoại - Những buổi chiều Việt Nam). Hoàn toàn khác với tiếng hát lạc quan trên con đường ra trận của đoàn quân giải phóng:

Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn

Hai đứa ở hai đầu xa thẳm

Đường ra trận mùa này đẹp lắm

Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây

(Phạm Tiến Duật - Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây)

Chiến tranh hiện lên trong “giấc sầu cô miên” của người lính cộng hòa là những âm thanh chết chóc của tiếng trống di quan cùng hình ảnh những lá cờ tang, màu đỏ quan tài và di hài người chết: Trăng xiêm ngãi, gió buồn nôn/ đã nghe kỳ tử trống dồn bên tai/ Sơn bôi mực đỏ quan tài/ ngàn sương rú hẹn tiếng dài chim âu/ Buông đôi tay rỗng sọ đầu/ mi xuôi mắt ngủ giấc sầu cô miên (Cung Trầm Tưởng - Ngủ).

2. Cái nhìn bế tắc, chán chường về cuộc chiến

Trong khi các nhà thơ - chiến sĩ Giải phóng quân đi vào chiến tranh một cách tự nguyện, hiến dâng tuổi 20 của mình cho Tổ quốc như một lẽ đương nhiên: chúng tôi đã đi không tiếc đời mình/ (nhưng tuổi 20 làm sao mà không tiếc)/ nhưng ai cũng tiếc tuổi 20 thì còn chi Tổ quốc?/ cỏ sắc và ấm quá, phải không em… (Thanh Thảo - Những người đi tới biển), thì các nhà thơ vùng đô thị miền Nam xem tuổi thanh xuân của thế hệ mình khi chia tay trong kỳ hè họp lớp cuối cùng để “lên đường” vào cuộc chiến, chính là bước vào “một cuộc chơi kỳ cục”:

Cuộc hội họp đã tàn

Những con ve đã chết

Và tất cả bạn bè anh

Đều đã lên đường

Vào chung một cuộc chơi kỳ cục

(Trần Dạ Từ - mùa hè 1965)

“Nửa đêm thức giấc”, ngẫm thân phận mình, họ nhận ra mang vác trên đôi vai mình không phải sứ mạng của tuổi thanh xuân mà là một thế kỷ đau buồn, không còn quá khứ, không có tương lai:

Vai mang thế kỷ buồn đau

Ngày xưa đã mất ngàn sau có còn

(Hoài Khanh - nửa đêm thức giấc)

Chính vì vậy, bước vào cuộc chiến, họ xem như mình đang đi trên chuyến xe lao vào hố thẳm, đi đến ngày “tận số”, bước đường “mạt vận” của kiếp người:

Xe hiện tại dẫn ngày mai xuống hố

Đời hi vọng mà vẫn tin tận số

Ô hô hô! mạt kiếp vận người!

(Quách Thoại - như băng trường tình)

Hành trang của họ khi bước vào cuộc chiến hoàn toàn khác với tư thế đầy lạc quan của những người chiến sĩ giải phóng khi bước ra chiến trường. Ngồi đợi giờ nổ súng dưới chiến hào, cũng là lúc thấy lòng càng thêm yêu Tổ quốc và quyết hi sinh cả cuộc đời vì Tổ quốc thiêng liêng:

Khi ta cắt rào thép gai

Khi ta ngồi dưới chiến hào đợi giờ nổ súng

Hơn bao giờ, ấy là lúc ta yêu Tổ quốc

Xin hiến dâng người cả cuộc đời ta

(Trần Vũ Mai - Ngày mai)

Tuổi thanh xuân lẽ ra phải là tuổi của khát vọng và lý tưởng hiến dâng sức mình cho tương lai đất nước, nhưng trong thơ các nhà thơ vùng đô thị miền Nam, tuổi trẻ nơi đây hoàn toàn không nhận ra ánh sáng tương lai, tất cả đều là mờ mịt:

Ta nằm đây trong lòng thế hệ

Ngửa mặt đòi xin ánh mặt trời

(Chế Vũ - trong lòng thế hệ)

Chiến tranh hiển hiện trong thơ họ là những bóng dơi chết chóc, những mái đầu phủ trắng khăn sô cùng một tâm hồn mốc ẩm với nỗi sầu âm dương cách biệt:

Ngồi trong vút bóng chim dơi

Mà ghê lạnh cả đất trời thâm sâu

Sương khăn sô, tấm phủ đầu

Che hồn ẩm mốc nỗi sầu âm dương

(Cung Trầm Tưởng - nghĩa địa)

Mỗi mùa xuân phải trực chiến không về quê thăm mẹ, tự thấy mình “già thêm một đỗi”, lòng dạ héo hon, buồn hơn cả nỗi buồn của Chúa:

Thêm một mùa xuân ta già thêm một đỗi

Tim phổi héo hon theo ngày tháng vô tình

Cũng gắng quay về nằm trên đất Mẹ

Chúa đã buồn nhưng ta lại buồn hơn

(Nguyễn Đông Giang - Ngày về, qua đò chiều cuối năm)

Người trở về thăm được cố hương thì quê hương cũng buồn hiu hắt. Muốn bước lên đò thì chiến tranh níu rị, quê mẹ vẫn mãi mãi cách xa:

Tôi trở lại với niềm đau cố xứ

Bến sông chiều Vĩnh Điện hắt hiu mưa

Muốn đi lên nhưng súng vọng đôi bờ

Nguồn với biển trở thành xa cách quá

(Tường Linh - Vọng tình chim)

Nỗi chán chường khi nghĩ đến tương lai mờ mịt. Muốn thoát khỏi hiện thực máu lửa, đi tìm tương lai, thì càng đi càng lạc sâu vào “hoang địa”. Vòm trời chỉ còn là một cổ áo quan:

Tôi trang bị hoài nghi mà thám hiểm tương lai, ngày một lạc sâu thêm vào hoang địa nỗi chán chường cứ trải rộng ra.

Và vòm trời như nắp áo quan bằng cẩm thạch

(Tô Thùy Yên - Lễ tấn phong tình yêu)

Hiện tại là đói khổ chiến tranh, tương lai là sự chết, nên thanh niên miền Nam khi bước vào đời chính là chôn đời vào cỗ áo quan:

Đói khổ chiến tranh

Tương lai sự chết

Người đi vào đời

Áo quan chôn vùi

(Ninh Chữ - Bài thơ đen)

Trong khi thơ tình của các nhà thơ chống Mỹ, tình yêu và hạnh phúc mỗi con người gắn liền với hạnh phúc chung của cả dân tộc. Họ bước vào cuộc chiến bảo vệ non sông chính là “đi vào hạnh phúc”, buộc cái chết phải cúi đầu cho tình yêu lên tiếng: Ta nắm tay nhau vào cuộc chiến đấu này/ Như đi vào hạnh phúc/ Ta nắm tay nhau bao lần đạp qua cái chết/ Cái chết cúi đầu/ Tình yêu cất lời ca (Dương Hương Ly - Bài thơ tình yêu), thì trong thơ miền Nam, tình yêu cũng mong manh vì cuộc chiến, người lính cộng hoà bước ra chiến trường là tự nguyện gửi lại cho người yêu tất cả những lời thề hẹn:

Mai tôi đi tình này xin gửi lại

Gửi lại tình này xin người nhận đón

hai tay

Đường ra chiến trường ai dám nói hay

Nên người chớ bắt tôi đành tâm hò hẹn

(Du Tử Lê - Tâm sự người lên mặt trận)

Chiến tranh “giẫm nát tâm hồn” đã biến tuổi trẻ miền Nam thành những “phế binh”, thành những “gã lính canh thô bạo”:

Có thể đời đã để sau lưng tôi chiến

tranh mù mịt

Cuộc sống đổi màu trong nước mắt

phế binh

Hay ở quanh tôi những đồn phòng ngự

Ðã biến tôi thành một gã lính canh

thô bạo

Ði giày đinh dẫm nát tâm hồn

(Nguyên Sa - Hai mươi)

Có thể nói, cái nhìn bế tắc, chán chường về chiến tranh của các nhà thơ vùng đô thị miền Nam đã thể hiện khá rõ sự nhìn nhận về bản chất phi nghĩa của cuộc chiến mà họ đang tham gia. Từ đó nảy sinh tâm trạng bi quan, lòng bi phẫn, dẫn đến tư tưởng phản chiến cùng nỗi khát khao về một ngày hòa bình, thống nhất Bắc Nam.

3. Tư tưởng phản chiến và khát vọng hoà bình, thống nhất

Tư tưởng phản chiến được thể hiện đầu tiên trong sự hoang mang trước hiện thực lịch sử: đó là nỗi sầu cắt chia đất nước: Lịch sử những hoang mangVới mối sầu chia cắt cùng sự can thiệp của Lũ thực dân đế quốc xâm lược: Khi anh em giết nhau ngoài phốVới lưỡi dao giấu lén sau lưngLũ thực dân đế quốcGiương cặp mắt tráo trân. Chính vì âm mưu xâm lược của ngoại bang đã gây ra cuộc chiến tranh vô nghĩa mà họ phải cầm súng tham dự: Bắn vào trán chúng taNhững viên đạn vô hìnhCho anh em giết nhauRồi cười lên thú dữ. Họ cảm thấy “ăn năn” vì đã phải tham gia chiến cuộc, họ chối từ chiến tranh bằng những lời “nguyền rủa”:

bài tình ca hôm nay

là những ăn năn nguyền rủa

(Vương Tân - Đoạn khởi đầu của một bản tình ca)

Họ nhận chân ra được bộ mặt thật của chính quyền miền Nam tay sai với tất cả những lời phỉnh dụ, những khẩu hiệu hô hào vô nghĩa lý: Sự ngưỡng mộ tôi ném vào các anh/ Khi các anh ném vào tôi những câu hỏi ban ngày:/ Khẩu hiệu nào hô to thì tổ quốc phì nhiêu?/ Câu thần chú nào đọc lên thì đất nước bình yên?Lời nói thần thánh nào cất lên thì tâm hồn đam mê tôi nằm yênNghe hòn đá trẻ thơ hát ở đáy giếng ngoan? (Nguyên Sa - Đạn đạo)

Từ những nhận thức ấy, họ “kêu lên căm thù” trước âm mưu cắt chia đất nước mình của lũ ngoại bang: ta kêu lên hờn căm/ khi quá thể chúng cắt tình ruột thịt/ hỡi mẹ hiền nhìn mẹ rưng rưng/ yêu chẳng được yêu khóc không dám khóc (Thanh Tâm Tuyền - Phiên khúc 20).

Họ trực tiếp cầm súng chiến đấu, nhưng vì hiểu được “tuần tự lớp lang” của vở hài kịch lịch sử mà mình tham gia, nên tự mình “treo khí giới”, bỏ súng trở về: Tôi òa khóc những chiều mây xuống thấpTreo khí giới trên cành tìm hiểu những ngôi sao/ Lịch sử vốn tuần tự lớp lang của hành trình vạch sẵn/ Thôi tôi trở về nhà tay trắng cả say mê (Tô Thùy Yên - Người yêu dấu)

Bị bắt buộc tham gia vào cuộc chiến tranh phi nghĩa nên những người lính Cộng hòa xót xa, không nỡ cầm súng bắn “đối phương” dù đạn đã lên nòng: Hình như cây súng con lạ lắm/ sao nó run lên khi đạn lên nòng/ tâm hồn nó như tâm hồn con vậy/ một kẻ nằm, kẻ đứng, xót xa không? (Nguyễn Dương Quang - Đêm cuối năm viết cho má).

Nghĩa là, những nhà thơ miền Nam đã nhìn khá rõ sự vô nghĩa của cuộc chiến mà chính họ đang can dự với tất cả nỗi đau, lòng hận thù đối với những kẻ chủ mưu cùng tâm trạng chán chường của người cầm bút: Niềm đau đất nước mỗi ngày một đau/ Câu hỏi đã lớn mỗi ngày một lớn/ Những đứa sát nhân, vu oan giá họa/ Những đứa chụp mũ, chụp mũ, chụp mũ/ Mỗi ngày một tăng theo cấp số nhân/ Bạn bè dần hết theo tỷ lệ nghịch/ Chán cả làm thơ, chán cả ngâm thơ (Nguyên Sa - Bao giờ).

Từ nhận thức bản chất cuộc chiến, từ lòng hận thù âm mưu gây nên chiến tranh, chia cắt của ngoại bang; họ bỏ ngũ, cổ vũ và tham gia vào các cuộc “xuống đường” biểu tình phản đối chiến tranh, lên án bọn tay sai bán nước “dâng linh hồn cho giặc”, “quên cốt nhục” anh em: hôm nay ta xông ra ngoài phố/ ngày 20/ nắm tay tròn cáu giận/ má phừng lửa yêu thương/ môi bỏng niềm tủi cực/ đêm qua ai thét giữa đêm dài/ tỉnh dậy ôi nao nức/ ấy là tiếng hét trong hồn ta/ ngã xuống ngã xuống/ những kẻ dâng linh hồn cho giặc/ những kẻ tối tăm quên cốt nhục/ những kẻ bán đứt quê hương/ ngã xuống ngã xuống/ chân dậm chật đường/ kéo về khắp ngả/ phá cho tan hoang/ nổ tung căm phẫn (Thanh Tâm Tuyền - Phiên Khúc 20).

Họ mơ ước ngày hòa bình sớm về trên quê hương, đất nước để nghe tiếng trẻ vui cười trên những “đồng lúa xanh bát ngát”; được sống hồn nhiên như cây cỏ giữa thiên nhiên; ngày không nghe tiếng máy bay rải bom, đêm không còn nghe tiếng súng: Con sẽ lớn lên trong tiếng vui cười/ Cùng với đồng lúa xanh bát ngát/ Cùng với cỏ cây con sống giữa thiên nhiên/ Ngày không nghe máy bay, đêm không nghe súng nổ (Trần Đức Uyển - Thơ viết cho đứa con tương lai). Ngày mai ấy, vũ khí sẽ trở thành lưỡi cày, lúa tròn mẩy hạt, đồng quê ríu rít tiếng chim, vui say trong làn gió thanh bình: Lúa có nghĩ rằng ngày mai sẽ khác?/ súng sẽ dùng để đúc lưỡi cày/ mỗi ba trăng lúa vàng tròn hạt/ chim sẽ ca và gió thổi lúa say (Nguyễn Dương Quang - Đêm kích dưới chân đồi Pá).

Khi chiến tranh chấm dứt, họ sẽ “giã từ vũ khí” trở về dựng lại mái nhà, khoác áo nâu ra đồng làm ruộng hay “trở về thay vợ giữ con”. Kết thúc chiến tranh là “nắm hạnh phúc trong bàn tay còn lại” và “chan yêu thương cho tất cả tâm hồn”: Ngày nào đó cuộc tương tàn chấm dứt/ Làng hoang vu người trở lại dựng nhà/ Tôi mặc áo nâu trở về làm ruộng/ Tôi trở về làm lại kiếp người ta/ Ngày nào đó không còn nghe tiếng súng/ Tôi trở về thay vợ giữ con/ Nắm hạnh phúc trong bàn tay còn lại/ Chan yêu thương cho tất cả tâm hồn (Nguyễn Đông Giang - Cho Tương Lai Bắt Gặp).

Giấc ngủ chập chờn trong thời chiến sẽ thay bằng giấc ngủ say. Tro bụi tàn cũng sẽ “kết trái đơm bông” và những dòng “mưa ngọt” sẽ thay cho những dòng nước mắt: Quê hương thoát khỏi cảnh tàn phá/ Hạnh phúc đo bằng giấc ngủ say/ Những người đã khuất không xao nhãng/ Tro bụi còn kết trái đơm bông/ Những người sống sót thêm tin tưởng/ Mưa ngọt thay vì lệ trẻ thơ (Hoàng Bảo Việt - Thèm đi).

Nỗi đau cắt chia đất nước đã tạo nên một “vết rạn” trong lòng, vì thế, họ luôn khát khao đợi chờ ngày thống nhất non sông: Chao ôi vết rạn trong lòng Việt/ Đã bón bao nhiêu máu giống nòi/ Chừ vẫn còn chia Nam, Bắc mãi/ Bao giờ cho mặn miếng trầu cay? (Thanh Việt Thanh - Bâng khuâng hồn lạc vào xuân mộng).

Dù có phải “buồn thắt ruột” vì chiến tranh, chia cắt; dù phải sống trong bế tắc, chán chường; họ luôn khát vọng: đợi chờ ngày hòa bình, thống nhất để được “đi tàu suốt” cho “Bắc với Nam má tựa vai kề”: Nghĩ đến quê hương buồn thắt ruột/ Biết bao lâu con mới được về?/ Biết bao giờ con đi tàu suốt/ Bắc với Nam má tựa vai kề? (Trần Đức Uyển - Thư gửi mẹ).

Họ chất chứa trong lòng nỗi đau thương trước thân phận của quê hương, của những người “con một mẹ” Việt Nam bị chiến tranh chia cắt. Họ “hát lên to lớn” như một lời khẳng định để “con cháu ngày sau nghe rõ”: Người Việt dù ở miền Bắc hay miền Nam “cùng là con một mẹ”; nước Việt Nam là một, chẳng kẻ thù nào có thể cắt chia:

ta hát lên to lớn

con cháu ngày sau còn nghe rõ

mà nhớ

đất ta là của ta

đừng ai hòng cắt xẻ

chúng ta thương yêu nhau

cùng là con một mẹ

chiếm lại trọn đất đai

xoá sạch oán thù

(Thanh Tâm Tuyền - Phiên Khúc 20)

Cùng một cuộc chiến tranh, nhưng cái nhìn về chiến tranh trong thơ ca của văn học cách mạng và kháng chiến là một cái nhìn vừa hiện thực vừa lãng mạn cách mạng. Người chiến sĩ Giải phóng quân ra trận với quan điểm, niềm tin và lý tưởng rõ ràng: Vượt qua gian khó, hi sinh, bền gan chiến đấu để giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Ở chiều ngược lại, cái nhìn về chiến tranh của thơ ca vùng đô thị miền Nam là một cái nhìn hoàn toàn đau buồn, chán chường, bế tắc. Vì vậy, người lính cộng hòa trong thơ miền Nam (kể cả bản thân nhà thơ), do bị bắt buộc cầm súng và hiểu rõ bản chất “lính đánh thuê” của cuộc chiến tranh mà mình can dự, nên không hề có lý tưởng chiến đấu; từ đó nảy sinh tư tưởng và hành động phản chiến cũng như khát vọng về một ngày hòa bình, thống nhất Bắc Nam.

​(baovannghe.vn)