Nghề câu của ngư dân Đà Nẵng - Ngọc Giao

28.07.2018

Đà Nẵng - một thành phố chạy dài ven theo bờ biển miền Trung, có đường bờ biển dài khoảng 92 km, với diện tích ngư trường khoảng 15.000 km2, tài nguyên biển Đà Nẵng khá dồi dào, trữ lượng tương đối lớn. Đại bộ phận ngư dân nơi đây sống thành các xóm làng ngay trên bãi cát sát biển hay lùi xa vào trong bãi một chút. Họ làm rất nhiều nghề gắn với biển như nghề lưới, mành,... đặc biệt nghề câu rất phát triển.
Nghề câu có hai dạng chính: câu đơn và câu giàn. Câu giàn là dạng câu có nhiều lưỡi câu được gắn kết với nhau và được thả cùng một lúc. Câu đơn là dạng câu chỉ có một lưỡi câu và dùng dây hoặc cần.

Nghề câu của ngư dân Đà Nẵng - Ngọc Giao

Câu giàn thì mỗi giềng câu kéo dài đến hàng ngàn mét, có khi cả ngàn lưỡi câu. Ngày xưa giềng câu được làm bằng dây gai, lưỡi gọng lớn bằng ngón chân cái, bây giờ giềng câu được làm bằng nilon, gọng lưỡi chỉ bằng ngón tay cái, mỗi chùm gồm 6 lưỡi câu kết lại với nhau chung quanh một trục. Đầu đài câu, người ta cột một cái phao. Đài câu là một sợi dây lớn buộc cục đá nặng vào một đầu, đến chỗ giăng câu, người ta ném cục đá ở đầu giềng câu xuống nước và bủa câu. Lưỡi câu được neo câu và giằng đá cho cách mặt đất chừng 5 cm, căng thành một tuyến dài. Khi cá mắc câu, cá càng cùng vẫy thì càng nhiều lưỡi câu quấn lại, móc nhiều thêm. Người thợ câu phải có sẵn hai phao lớn và một số dụng cụ như câu bắt có ngạnh và dao bén. Khi phát hiện được phía trước có cá lớn mắc câu, thợ câu phải cẩn thận lấy chiếc phao móc lưỡi câu gần nhất vào rồi thả xuống nước. Làm như vậy để tránh tình trạng bị cá lớn kéo ngược xuống biển hoặc bị lưỡi câu quất ngược lại vào tay. Khi đã móc lưỡi câu gần nhất vào chiếc phao rồi thì cứ để cho cá mặc sức quẩy đến khi cá đã đuối sức thì bắt lên. Câu giăng chủ yếu để câu cá hố lớn, lưỡi câu và cước câu lớn hơn cước câu và lưỡi câu bủa, có đốc dài khoảng 10 cm, gắn liền với lưỡi câu, để mỗi khi cá ăn, vùng vẫy, răng cá không cắn vào sợi dây làm đứt.

Nghề câu ở Đà Nẵng còn có câu kiều là loại câu không móc mồi, nhưng có rất nhiều lưỡi nối tiếp nhau được thả chìm dưới đáy biển, cá chạy ngang sẽ bị vướng mắc. Còn câu bủa thì mỗi ghe cũng có 4 - 5 nẹp câu, mỗi nẹp câu có từ 100 đến 150 lưỡi câu được móc mồi thả xuống biển theo chiều dài hay chiều vòng cung. Câu bủa thì lưỡi câu được tóm liền với sợi dây cước, lưỡi nhỏ hơn lưỡi câu giăng.

Câu mực thì mỗi người một chiếc xuồng riêng hoặc thúng riêng. Người thợ treo đèn măng-sông (manchon) vào một cái khung để giữ thăng bằng. Người thợ cầm một đoạn dây dài chừng 4 m đầu kia cột một cục chì nhỏ và mấy mảnh vải trắng thật đều. Lúc mực đớp mảnh vải trắng thì nó sẽ mắc vào và người thợ vớt lên, gỡ ra ngay. Trời càng tối thì câu mực càng thuận lợi. Ban đêm câu được bao nhiêu thì đến sáng người ta mổ mực và treo lên cho khô. Câu mực tuy vất vả nhưng đem lại lợi nhuận cao cho ngư dân.

Ngày nay, nghề câu mực và câu cá ngừ ở đại dương rất phổ biến. Đây là hai nghề mang lại thu nhập cao cho ngư dân. Sản lượng cá đánh bắt được không chỉ cung cấp cho thị trường nội địa mà còn là nguồn hàng chủ lực dùng để xuất khẩu. Nhờ vào nghề câu mà ngư dân Đà Nẵng có cuộc sống ngày càng ổn định hơn.

N.G

 

 (*) Theo lời ông Vũ Quang Thành - một học trò cũ của Hồ Thấu, bài thơ này còn có tựa đề là “Sang mùa”, được Hồ Thấu viết năm 1946, khi đang làm việc tại Ủy ban Liên kiểm Việt - Pháp tại Đà Nẵng.

 

Quê hương

Chiến khu mưa chiều đổ

Buồn vây nhớ quê hương

Nhà ta trống cửa ngõ

Giặc đốt trơ mảnh tường

 

Láng giềng vui mấy kẻ

Lạnh tanh còn ai đâu

Người tản cư lặng lẽ

Người chết chôn không sâu

 

Làng ta mấy trận đốt

Nhà cửa liệt tro tàn

Cây cối thiêu xơ xác

Đất chết đồng bỏ hoang

 

Không gà gáy, chó sủa

Không giọng hát đưa em

Bếp trưa không đỏ lửa

Hoàng hôn không ánh đèn

 

Nằm giữa ba đồn giặc

Rực rỡ lò hy sinh

Trên tro hồng máu đọng

Anh hùng lớp lớp sinh

 

Sáng ngời màu tử chiến

Da nám sắc lửa hồng

Tóc rối bừng đêm biếc

Mắt sáng ánh dao găm

 

Anh hùng mới mười tuổi

Du kích trốn mẹ cha

Đầu bạc không hề cúi

Chửi giặc chết cười khà

 

Anh hùng đoàn cảm tử

Quấn gót thù không ly

Anh hùng thân nhi nữ

Vào đồn giắt thù đi

 

Quặn đau từng thớ thịt

Trong non nước Việt Nam

Làng ta vui dũng liệt

Say gian khổ hờn căm

 

Chiều nay ai chết nữa

Mặt quen hay tình thân

Chụm hồn trong khói lửa

Cho ngày mai trong ngần

 

Chiến khu buồn dựng núi

Thương bạn lắm bạn ơi

Bạn ngồi trong lửa rụi

Tay máu đắp ngày mai

 

Ngày mai rồi rực rỡ

Làng ta còn những ai

Tay mạnh và miệng nở

Dựng huy hoàng tương lai.

                                    1947

(Hứa Văn Ân và Hồ Thị Thuẩn sưu tầm)