Quyền con người trong Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh

11.02.2019

Quyền con người trong Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Quyền con người và quyền dân tộc trong Tuyên ngôn Độc lập là sự kế thừa và phát triển quyền tự chủ của nhân dân Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước, cùng với sự kết tinh giá trị nhân văn cao cả của nhân loại mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lĩnh hội được qua gần 30 năm bôn ba khắp thế giới để tìm đường cứu nước.

Tuyên ngôn Độc lập mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đi vào lịch sử như một dấu son chói lọi nhất trong hành trình mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Bản Tuyên ngôn Độc lập là văn bản pháp lý quan trọng đầu tiên khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Sự ra đời của Nhà nước Dân chủ nhân dân ở Việt Nam là bước nhảy vọt vĩ đại trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam; đồng thời có tác dụng to lớn, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc trên phạm vi toàn thế giới trong thế kỷ XX. Đây thực sự là một áng văn bất hủ khẳng định quyền con người và quyền độc lập, tự do thiêng liêng của dân tộc Việt Nam.

Khẳng định về quyền con người, mở đầu Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn hai đoạn văn bất hủ trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1789. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên sự phát triển quyền tự nhiên của con người đến quyền độc lập, tự do của dân tộc; khẳng định sự thống nhất biện chứng giữa quyền dân tộc và quyền con người với tư duy pháp lý của nhân loại tiến bộ, không xa lạ với những chân lý phổ biến đã được coi là thành quả văn minh của loài người.

Sau gần 30 năm (từ 1911 - 1941) bôn ba tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vượt qua 3 đại dương, đến 4 châu lục, đặt chân lên gần 30 nước để nghiên cứu, tìm hiểu đời sống, nguyện vọng, hoạt động đấu tranh giành quyền độc lập của nhiều dân tộc.

Bản Tuyên ngôn Độc lập cũng đã tố cáo và lên án những tội ác man rợ của thực dân Pháp về quyền con người, quyền dân tộc đối với đồng bào ta về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa,... Bản Tuyên ngôn Độc lập còn khẳng định với thế giới cơ sở pháp lý về quyền của dân tộc Việt Nam được “hưởng tự do độc lập”, đồng thời cũng vạch ra cơ sở thực tế là Việt Nam “sự thật đã thành một nước tự do và độc lập”. Bằng những lý lẽ sắc bén, lập luận đanh thép và lời văn hùng hồn, bản Tuyên ngôn Độc lập đã khẳng định lại một lần nữa quyền của dân tộc Việt Nam phải được sống trong độc lập, tự do như bất cứ dân tộc nào khác: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”.

Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là lời tuyên bố cáo chung của chế độ thuộc địa dưới mọi hình thức, đồng thời mở đầu thời đại trỗi dậy của các dân tộc bị áp bức, bóc lột đứng lên làm chủ vận mệnh của mình. Chính vì vậy, nhiều nước châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ-La tinh đã thừa nhận đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào sự xác lập một nền công pháp quốc tế mới, đảm bảo cho các quyền tự do, bình đẳng của con người và quyền tự quyết, quyền bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc trong việc tự do lựa chọn con đường phát triển của mình về chính trị, kinh tế, văn hóa,...

Những câu kết thúc trong bản Tuyên ngôn Độc lập chính là “lời thề độc lập” - lời thề bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền đất nước của nhân dân Việt Nam: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Như vậy, chỉ trong một đoạn văn ngắn với 52 từ, Hồ Chí Minh đã ba lần nhắc đến “tự do, độc lập” với ba ý nghĩa nối tiếp nhằm thể hiện khát khao tự do, khát khao độc lập của toàn thể dân tộc Việt Nam.

Có thể khẳng định rằng, Tuyên ngôn Độc lập là tác phẩm đầu tiên trong lịch sử Việt Nam hội tụ được các trào lưu lịch sử Việt Nam với trào lưu lịch sử nhân loại, làm xích lại gần nhau những quan niệm về quyền con người, quyền tự quyết của các dân tộc trên thế giới. Tuyên ngôn Độc lập là sự kết tinh khát vọng độc lập mấy nghìn năm của dân tộc. Đó là một mốc son chói lọi, góp phần làm rạng rỡ nền văn hiến Việt Nam, chấm dứt chính thể quân chủ chuyên chế và chế độ thực dân áp bức, mở ra kỷ nguyên mới dân chủ cộng hòa ở nước ta. Giá trị lớn lao về quyền con người, quyền dân tộc trong bản Tuyên ngôn Độc lập mùa Thu năm ấy mãi mãi trường tồn! Thực tiễn cách mạng Việt Nam 73 năm qua, kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố bản Tuyên ngôn Độc lập, những quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về chính trị, pháp quyền, quyền dân tộc và đặc biệt là về quyền con người và quyền dân tộc trong Tuyên ngôn vẫn là nền tảng lý luận, tinh thần dẫn đường cho cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn, vững bước đi lên theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn.

Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng về quyền con người và quyền dân tộc trong Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 cho đến Hiến pháp năm 2013, quyền con người và quyền dân tộc luôn được đề cao và ngày một hoàn thiện hơn để sao cho con người được hưởng trọn vẹn nhất những giá trị đáng có, phù hợp với xu thế thời đại và thực tiễn cuộc sống.

Hoàng Duyên
(http://giadinh.net.vn)