Nguyễn Bính, lữ khách nhớ quê

29.02.2024
Huỳnh Văn Hoa
Ước vọng ngày về, nhất là mỗi khi xuân về Tết đến đã tạo ra nơi Nguyễn Bính một giọng thơ lạ lẫm về tâm trạng tha hương. Hiếm thấy nhà thơ lãng mạn nào nói hay hơn ông về cảnh huống “Rõi bóng quê nhà mắt lệ tuôn“. Các bài thơ Xuân Tha Hương, Xuân Lại Tha Hương, Xuân Vẫn Tha Hương, Hành Phương Nam, Nguyễn Bính đã dựng nên dòng thơ riêng: Dòng thơ cố quận. Dòng thơ này đúc kết những cay đắng tình đời mà Nguyễn Bính từng giáp mặt trong những năm quê người lẻ bóng…

Nguyễn Bính, lữ khách nhớ quê

Đêm ba mươi Tết trời mưa bụi

Sực nhớ quê nhà uống rượu suông

(Nguyễn Bính)

Nguyễn Bính (1918-1966) là gương mặt độc đáo của Thơ mới, giai đoạn 1932 – 1945. Thơ Nguyễn Bính đến với bạn đọc như một cô gái quê mặn mà và duyên dáng, dung dị và đằm thắm, đậm sắc màu dân tộc, gần gũi với ca dao dân ca. Thơ Nguyễn Bính, có một mảng ghi dấu ấn nơi người đọc, đó là những vần thơ mang nỗi buồn xa xứ. Nguyễn Bính là nhà thơ tha hương. Suốt cuộc đời lầm lũi, lận đận nơi quê người, Nguyễn Bính có những vần thơ ” lữ khách nhớ quê” đầy tê tái, nhất là mỗi khi Xuân về, Tết đến.

30 Tết Ất Tỵ, ngày giáp Tết Bính Ngọ (20.01.1966) cũng là kiểu tha hương mới, Nguyễn Bính rời chỗ cơ quan đang sơ tán, đến chơi nhà người bạn ở Lý Nhân, không ngờ, lần ấy, nhà thơ từ biệt cõi đời:

Năm mới tháng giêng mồng một Tết

Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân

(Nhạc xuân)

Đối với Nguyễn Bính, tha hương như một định mệnh. Gần 20 năm trời, ông  nếm trải đầy đủ mọi dư vị đắng cay của cảnh  “một thân lận đận nơi trời xa”. Người thi sĩ giang hồ này đã trôi dạt nhiều nơi. Có khi, ngược tàu lên Phú Thọ, có lúc xuống Hải Phòng, rồi vào Huế, Sài Gòn. Cuối cùng, vào các tỉnh miền Tây Nam Bộ, xuống tới Hà Tiên. Những ngày tháng lang bạt đó đã để lại cho đời những vần thơ ngậm ngùi xót xa và không kém phần hấp dẫn. Có lẽ, trong các nhà thơ lãng mạn, không ai như ông, không chịu ở nguyên một chỗ. Nguyễn Bính đi như vô định, như một khát vọng tìm kiếm một quê hương mới … Song, càng dấn bước, Nguyễn Bính càng thấy “quê người đắng khói, quê người cay men“:

Từ nay khi nhớ quê nhà

Thấy mây Tần, tưởng đó là thôn Vân

(Bài thơ Thôn Vân)

Hoặc :

Hỡi ôi, trời đất vô cùng rộng

Nào biết tìm đâu một mái nhà

(Đêm mưa đất khách)

Trong bài Thư Gởi Thầy Mẹ, Nguyễn Bính nói lên tâm trạng tha hương của mình với những câu thơ không kém phần đớn đau, ân hận:

Con dan díu  nợ giang hồ

Một mai những tưởng cơ đồ làm nên

Ai ngờ ngày tháng lưu niên …

Vậy mà, Nguyễn Bính vẫn cứ đi, đi mãi. Làng quê trở thành hoài niệm mỗi khi dừng bước giang hồ. Sau bao ngày tháng “đêm đêm quán trọ thức thi đèn, những buổi soi gương “thấy lệch bao nhiêu mặt chữ điền“, một ngày đầy ngỡ ngàng :

Chẳng đợi mà xuân vẫn cứ sang

Phồn hoa thôi hết mộng huy hoàng

Sáng nay sực tỉnh sầu đô thị

Tôi đã về đây rất vội vàng.

(Sao chẳng về đây)

“Sực tỉnh” vậy thôi! Vốn là nhà thơ yêu tha thiết cảnh xuân, vậy mà mùa xuân đến, Nguyễn Bính lại cô đơn. Quạnh quẽ một thân, người thi sĩ vẫn không nguôi nhớ đến cánh hoa đào, phiên chợ Tết, câu đối bên cột nhà hàng xóm. Như để chống chọi lại nỗi buồn xa xứ, ông quay ra với chén rượu và mong tìm ở đó chút lãng quên. Nhưng rồi, thơ cũng suông và rượu vẫn đắng :

Chén rượu tha hươngTrời, đắng lắm– (Xuân tha hương )

Thất vọng trong tình trường, trong “sòng đời thua đến trắng hai tay“, nhiều khi không còn chút bám víu nào, Nguyễn Bính có những vần thơ đọc đến thật là tội nghiệp :

Em thường cầu nguyện, thường van vái

Một sớm thanh bình mặt đại dương

Bao giờ em được về quê cũ

Dâng chị bài thơ Xuân Cố Hương

(Xuân vẫn tha hương)

Chị Trúc, người chị trong nhiều bài thơ của Nguyễn Bính, là một biểu tượng của ngày về, của ước mơ được sẻ chia. “Tha hương không gặp người tri kỷ“, chút êm đềm cũ tan biến, trong nhiều bài thơ xuân, Nguyễn Bính thường viết trong tâm trạng gãy đổ, đắng chát. Men vị cay nồng u uất là một hương vị rất đặc biệt ở những ngày tháng phiêu lưu này. Khát vọng trở lại quê nhà như ngọn nến luôn chực bùng cháy trong ông:

Một thân quán trọ sầu phong toả

Đốt ngọn đèn lên bóng rợn tường

(Xuân vẫn tha hương)

Ngọn nến hoài thương ấy, vừa sáng trong lòng nhà thơ những khát khao và cũng lại chiếu hắt lên đó những nỗi niềm cô quạnh, bơ vơ:

Chao ôi, Tết đến em không được

Trông thấy quê hương thật não nùng

 

Chiều qua ngồi ngắm hoàng hôn xuống

Nhớ chị làm sao, nhớ lạ lùng

 

Chị ơi, Tết đến em mua rượu

Em uống cho say đến não lòng

Uống say cười vỡ ba gian gác

Ném cái chung tình xuống đáy sông

(Xuân tha hương)

Quê nhà xa lắc xa lơ đó

Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay

(Hành phương Nam)

Ước vọng ngày về, nhất là mỗi khi xuân về Tết đến đã tạo ra nơi Nguyễn Bính một giọng thơ lạ lẫm về tâm trạng tha hương. Hiếm thấy nhà thơ lãng mạn nào nói hay hơn ông về cảnh huống “Rõi bóng quê nhà mắt lệ tuôn“. Các bài thơ Xuân Tha Hương, Xuân Lại Tha Hương, Xuân Vẫn Tha Hương, Hành Phương Nam, Nguyễn Bính đã dựng nên dòng thơ riêng: Dòng thơ cố quận. Dòng thơ này đúc kết những cay đắng tình đời mà Nguyễn Bính từng giáp mặt trong những năm quê người lẻ bóng. Ông là nhà thơ tự lưu đày ngay trên quê hương, thảng hoặc, Nguyễn Bính cũng có tâm trạng giống Bạch Cư Dị bị biếm trích đi Giang Châu. Khác chăng, Bạch Cư Dị còn có một ca kỹ đồng điệu. Tiếng đàn tỳ bà trên đất Tầm Dương đêm nào đã gặp một tâm hồn. Nguyễn Bính không được như thế:

Tha hương không gặp người tri kỷ

Một cánh hoa tươi đỡ chạnh lòng ?

Quê người đứng ngắm mây lưu lạc

Bến cũ ngồi nghe sóng lỡ làng …

Có thể nói, với dòng thơ cố quận, Nguyễn Bính đã tạc dựng một giọng điệu riêng vào văn học Việt Nam giai đoạn 1932-1945, cái đó cũng làm nên một Nguyễn Bính không lẫn với bất cứ nhà thơ nào.

Hơn năm mươi năm, kể từ chuyến tha hương cuối cùng, những bài thơ cô lữ nhớ quê của Nguyễn Bính vẫn cứ day dứt nơi tâm thức người Việt trong mỗi độ xuân về, tết đến.

H.V.H