Gió - Truyện Ý Nhi
Ông vừa khúc khắc ho vừa lẩm bẩm, tệ quá, chẳng gió máy gì mà cũng viêm họng, rồi nhoài người ra bên ngoài cửa sổ, nhìn kìa, cây cối im phắc như đã chết vậy. Vợ ông, một phụ nữ mảnh mai, tóc bạc búi lại thành búi nhỏ sau gáy, bưng một tách trà còn nóng, đến bên ông, nhỏ nhẹ, ông có nhìn thấy dãy cờ xanh, đỏ, tím vàng trước cổng công ty BM bên kia đường không. Ông hơi giật mình, quay lại, tại sao không.
Gần đây, ông vẫn có cách trả lời bằng một câu hỏi như vậy. Bà bảo, mấy lá cờ đang bay phần phật trong gió đấy, lá màu xanh kia còn muốn tơi tả ra vì sức gió quá mạnh. Ông đáp, giọng bất bình, mắt tôi còn tốt mà. Làm gì có chút gió nào. Bà cười nhẹ, tôi biết, chỉ có mắt tôi dạo này tệ quá. Thôi, ông vào đi kẻo...
Bà không thể trả lời câu hỏi tại sao và từ khi nào về cảm giác “không có gió” của ông. Chiều nọ, ông từ viện nghiên cứu trở về, ở rất lâu trong phòng riêng rồi bỗng chạy ra mở tung hết các cánh cửa lớn bé trong nhà, kêu to lên, sao chẳng có chút gió nào thế này, giữa lúc mùa đông chớm về, gió đang lay động tất cả các cánh rèm và nhiệt độ đang xuống thấp.
Theo thói quen, bà không gặng hỏi, không cãi lại, bà nghĩ chắc ông đang bực bõ điều gì, rồi mọi thứ sẽ qua. Nhưng bà đã nhầm. Cảm giác thiếu gió đã thành một căn bệnh, mỗi lúc một mạnh hơn, giống như những ngọn gió đã hợp thành cơn bão vậy. Mà là một cơn bão không thuyên giảm, không tan. Hầu hết các bác sĩ đều cho rằng đó là một trạng thái tâm lý và nhất thiết cần phải biết nguyên cớ thì mới mong có thể chữa chạy. Thế nhưng ông không bao giờ hé lộ chuyện gì đã xảy ra trong buổi chiều đó hay trong những ngày tháng đó. Ở viện nghiên cứu, một số người cho rằng có thể do thất bại của một công trình nghiên cứu về địa chấn mà ông đã mất nhiều công sức, số khác lại suy đoán có lẽ do sự bất đồng sâu sắc trong quan điểm làm khoa học giữa ông và viện trưởng. Bà không nghĩ vậy. Ông là một người từng trải, những sai sót, những khó khăn, những thất bại trong công việc cũng như sự bất hòa triền miên giữa ông và những người lãnh đạo là điều quá bình thường với ông, chúng không thể quật ngã ông theo một cách khốc liệt thế này.
Theo lời khuyên của bác sĩ, bà đưa ông về quê, hy vọng sự thay đổi cảnh quan sẽ giúp ông thoát khỏi những ám ảnh. Bà đặt ghế trước hiên nhà cho ông ngồi, mắc võng vào thân hai cây xoài lớn để ông nằm nghỉ rồi đưa ông đi dạo dọc bờ sông nhỏ... Bà nói dè dặt, dễ chịu quá, gió ở quê mới thực là gió. Ông lim dim, gật gù vẻ như lắng nghe vợ rồi bất thần mở to mắt, nhìn bà, tôi đâu phải là đứa trẻ lên ba để bà dỗ dành, phỉnh nịnh. Đâu, gió đâu, ông hỏi dồn dập, giọng thách đố. Thấy vợ im lặng, ông cười đắc thắng, rõ ràng là chẳng có tí gió nào. Rồi vừa đưa tay vò rối mái tóc chớm bạc ông vừa càu nhàu, bức bối không chịu nổi.
Trở lại thành phố, bà đành an phận với cuộc sống có phần bất thường của mình. Trong từ điển của bà không có từ gió. Mỗi khi có khách đến chơi nhà, bà thì thầm dặn dò để tránh những kích động không cần thiết. Lần nọ, người em trai của ông ở xa về, ghé thăm, đã làm nổ tung cả căn nhà vì một câu nói vô tình. Vừa bước vào nhà, ông em đã cất giọng hào hứng, ở thành phố mà có được mảnh vườn, nắng gió tràn trề thế này thì quá hạnh phúc, quá may mắn. Bà vừa đưa tay ngăn lại, ông đã từ trong phòng xăm xăm bước ra, chẳng kịp chào hỏi, chú bảo sao, gió hả, gió đâu chú chỉ tôi xem. Bà nhẹ nhàng, chú ấy nhầm. Thôi hai anh em uống nước chanh cho mát.
Người em nghe chuyện, bất bình, không thể sống như vậy được, phải có cách thoát khỏi tình cảnh này chứ. Anh ấy hao mòn đi mà chị cũng cạn hết sức lực rồi. Bà hỏi, giọng mệt mỏi, chú bảo cách nào đây. Người em ngồi thần người một lúc rồi bật kêu lên, đưa anh ấy sang Pháp, chỗ cháu T. đang sống ấy. Thời buổi người ta có thể dùng nhịp tim để điều khiển điện thoại di động, người ta có thể sản xuất ra Graphene (1) mà một chứng tật khơi khơi thế này đành bó tay sao.
Sau gần cả tháng trời chạy đôn chạy đáo, lo các thủ tục cần thiết cả ở Pháp và Việt Nam, ông bà cùng người con trai ra phi trường. Ông có vẻ hơi ngơ ngác nơi chốn đông người qua lại nhưng không có phản ứng gì đặc biệt. Chỉ đến khi bước vào khoang máy bay mọi chuyện mới xảy ra. Ông đứng chắn ngay cửa ra vào, chỗ cô hướng dẫn viên mặc áo dài đỏ xinh đẹp đang tươi cười đón khách. Ông kêu lên, giọng khản đặc, ngột ngạt quá, làm sao mà chịu nổi, cô làm ơn đi. Cô nhân viên nhã nhặn, dạ, cháu có thể giúp gì cho bác ạ. Ông vẫn không hạ giọng, giúp gì ư, giúp đưa tôi ra khỏi chỗ ngột ngạt này. Cô nhân viên đỏ bừng mặt, nhìn vợ ông và người con trai cầu cứu, thế này là sao ạ. Sau lưng ông, hành khách đã dồn đống lại, vài người nghển cổ lắng nghe câu chuyện. Có ai đó nói nhỏ, giáo sư K. kìa. Chắc ông ấy đi dự hội nghị khoa học. Có ai đó chép miệng, ủa, tôi mới thấy ông ấy nói chuyện trên TV mà sao hôm nay lại gầy yếu thế kia nhỉ. Bà và con trai bối rối xin lỗi rồi đưa ông trở lại nhà ga. Người phụ trách lịch sự lắng nghe câu chuyện của họ nhưng từ chối nhận một hành khách như ông, để bảo đảm an ninh cho chuyến bay. Người con trai hỏi, có cách chi khác không. Người phụ trách cười, không rõ là đùa hay thật, phải thuê một chuyên cơ.
Cả bà và con trai, không ai ngờ rằng chuyến đi bất thành lại là dấu mốc cho sự thay đổi tâm tính của ông.
Ông không còn nói đến sự thiếu gió nữa mà là nói đến việc có gió, rất nhiều gió ở một nơi nào đó. Đương nhiên, đó không phải là một quốc gia có tên tuổi, có vị trí, có ngôn ngữ, có diện tích, có số dân... trên bản đồ thế giới mà ai cũng biết. Ông ngồi bên máy tính, gõ vào tất cả các trang mạng, hy vọng có thể tìm thấy dấu vết của xứ Gió - ông đặt tên cho vùng đất mơ ước của mình như vậy. Ông để bên cạnh một cuốn sổ nhỏ, một cây bút và ghi lại những dấu hiệu, những chi tiết, những chỉ số có liên quan đến gió. Ông vào xem cả cuốn phim hoạt hình Gió có họ hàng với mèo, chăm chú nghe lời thoại của con cáo và con mèo khi gió cuốn phăng những con cá của mèo đến chỗ cáo và gió lại cuốn phăng mấy miếng xúc xích của cáo tới chỗ mèo. Ông ghi vào sổ tay: Gió - cáo - mèo. Ở trang bên cạnh, là một số câu thơ, được ghi cách đoạn để đánh dấu những tác giả khác nhau: Khi tôi về qua khu phố nhỏ/gió mùa cũng trở về... Ngồi đây nhớ gió muôn trùng/nhớ em mọi nhỏ trên rừng xưa kia... Mây trắng bay đi cùng với gió/Lòng như trời biếc lúc nguyên sơ... Đêm thẫm tối dịu dàng chỉ có gió là tự do trong khu vườn rộng... Gió phần phật bất ngờ bứt tung lá úa/và bẻ hướng đàn chim như những mũi tên bay... Ôi buồn sao trên bến bờ này/anh chỉ một thân cây không cành lá... Ở một ga lẻ/Tôi thấy mình bước ra khỏi vở kịch... (2)Có hôm bà mang sữa vào phòng, thấy ông đang chăm chú xem những bức tranh vẽ cảnh gió bão trên biển của một họa sĩ Nga nổi tiếng. Không biết có vợ bên cạnh, ông vừa xem tranh vừa ngâm nga, Đi đến đó dường như ta có hẹn/hẹn cùng ai, không nhớ rõ là ai (3)... Bà lẳng lặng đặt ly sữa rồi đi ra. Bà không biết trước năm 25 tuổi, tức là trước ngày quen bà, ông đã đọc, đã xem những gì nhưng từ bấy đến giờ, bà chỉ thấy ông đọc các loại sách chuyên ngành hẹp và một số ngành khoa học tự nhiên có liên quan. Việc ông đọc tiểu thuyết, đọc thơ, xem tranh, xem phim khiến bà thấy ngỡ ngàng. Bà có cảm giác một con người khác đã nhập vào ông hay ông đã bỗng dưng thay đổi thành một con người khác. Bà thấp thỏm chờ đợi một kết cục, theo linh cảm của bà, một kết cục không mấy vui vẻ.
Chiều nọ, sau mấy tháng ở lì trong nhà, ông bắt đầu ra phố, đi dạo dưới hàng cây bằng lăng đang nở hoa tím. Ông hào hứng, hoa bằng lăng đẹp quá bà ạ, cả dãy phố rực rỡ hẳn lên, sáng sủa hẳn lên. Ông đi chậm rãi, đầu hơi cúi xuống như chăm chú đếm bước chân của chính mình, hoàn toàn không để ý đến dòng người ồn ã, tấp nập dưới lòng đường. Đi hết đoạn vỉa hè xuôi xuống con dốc nhỏ, ông quay trở lại chỗ góc đường có cửa hàng bách hóa lớn, rồi lại trở về lối cũ. Cứ như vậy, mỗi chiều ông lại ra phố và chỉ trở về khi trời đã xâm xẩm tối với vẻ bồn chồn trong ánh mắt, trong cử chỉ. Ông nói, như để trấn an bà, đi bộ là cách tập thể lực tốt nhất cho người cao tuổi nhưng ông không rủ bà cùng đi. Bà biết ông đang chuẩn bị cho một việc nào đó nhưng không thể biết đích xác là việc gì. Trong một buổi chiều như vậy, khi quay gót, ông vấp phải thanh sắt chìa ra từ một tảng bê tông của ngôi nhà đang phá vứt ra ngoài lề đường. Ông tập tễnh về nhà, vẻ lo lắng, tệ quá, sao lại xảy chuyện vào lúc này chứ. Bà nghe hai chữ lúc này có vẻ gì rất đặc biệt nhưng chỉ lẳng lặng rửa vết đau và băng bó cho ông, nói nhỏ nhẹ, vài bữa là ông sẽ đi lại được thôi. Thế nhưng vết thương sưng tấy khiến ông phát sốt và phải đưa vào viện vì sợ trùng uốn ván. Ông nằm đó mê man trong cơn sốt, mặt đỏ bừng bừng, mắt nhắm nghiền, đôi lần thốt lên những câu nói rời rạc khó hiểu: Hãy tin vào cơn đau của mình... Cây cầu hay dòng sông... Trước ta hay sau ta... Bà ngồi trên chiếc ghế nhỏ, nhìn từng giọt, từng giọt dung dịch trong suốt truyền vào cơ thể ông. Nước mắt của bà cũng rơi từng giọt từng giọt mặn chát qua đôi môi đã se khô.
Rồi cơn sốt qua đi. Ông về nhà, chiều chiều lại ra phố. Bà thường đứng bên ô cửa nhỏ nhìn ông, cảm thấy hết sự bất lực của mình. Dù không nói ra, cả hai đều ý thức họ đang từ từ tách biệt khỏi nhau và đều biết rằng đó là điều không thể cứu vãn. Chiều nọ, lúc bà đi thăm một người bạn bị ốm trở về, ông đã đi khỏi. Trên bàn làm việc của ông, bà nhìn thấy bức thư viết tay: Anh đi đây. Anh tin là em hiểu anh như đã từng hiểu anh mấy chục năm qua. Với số tiền chúng ta dành dụm cho tuổi già, em hãy chăm lo việc ăn uống, thuốc thang. Em có thể thu xếp sang sống với con. Phần dưới bức thư, ông ghi lại câu thơ của Paul Eluard: Dans l’amour la vie a toujours/Un coeur léger et renaissant/Rien n’y pourra jamais finir/Demain s’y allege d’hier (Trong tình yêu cuộc sống mãi mãi có/ một trái tim nhẹ tênh đang hồi sinh/ở đó không có gì kết thúc bao giờ/ở đó ngày mai nhẹ bớt gánh nặng hôm qua) (4). Rồi lại viết thêm một đoạn nữa: Anh không nhớ đã đọc hay đã nghe ở đâu đó câu nói này: văn chương là thứ tuyệt nhất được phát minh ra để tránh bất hạnh. Bấy giờ anh không để ý lắm nhưng giờ đây thì anh thấy đó là một nhận xét xác đáng. Văn chương bày cho ta một cách sống khác, đem cho ta những hy vọng khác. Đem toàn bộ tài liệu của anh tặng lại viện nghiên cứu hoặc thư viện khoa học tự nhiên và hãy đặt trên giá sách của em những cuốn tiểu thuyết, những tập thơ của Dostoievxki, Camus, Paul Eluard, Kawabata... Anh. Bà đọc bức thư một lần nữa, dừng lại một chút chỗ mấy câu thơ của P. Eluard rồi gấp thư, đặt vào cuốn album gia đình. Bà không khóc. Bà không tin rằng ông ra đi mãi mãi. (Còn nữa)
Truyện ngắn của Ý Nhi
(1) Vật liệu công nghệ cao, được tạo thành từ một nguyên tử carbon, cứng hơn thép, nhẹ hơn lông chim. Vật liệu siêu nhẹ này sẽ làm nên cuộc cách mạng trong công nghệ thông tin, nghiên cứu vũ trụ, y tế...
(2) Thơ của Nguyễn Xuân Thiệp, Bùi Giáng, Xuân Quỳnh, Đinh Thị Như Thúy, P. Neruda, G. Lorca, Vũ Thành Sơn.
(3) Thơ Tô Thùy Yên
(4) Thơ Paul Eluar, Huỳnh Phan Anh chuyển ngữ.
Nguồn: thanhnien.com.vn