Sông quê hoài vọng - Nhụy Nguyên

05.06.2014

Trong ký ức tôi luôn hiện hữu một dòng sông. Con sông hiền hòa chảy vào đồng ruộng ngút ngàn phù sa, nơi không đoạn đê nào không in dấu chân người nông dân làng thuần phác, nứt nẻ như ruộng khô ngày nắng hạn...

Tôi nhớ như in Trạm Bơm với hai cái vòi đen sì hút nước lên con mương mỗi bận trời dâng hạn. Dòng sông hẹp rất ít nước. Sông cạn, xóm làng rất mừng vì họ cắt được toóc về lợp nhà. Bọn trẻ chúng tôi thì lo chọn những thân toóc tươi nhất, cắt lấy đoạn giữa, dùng làm ống thổi bọt xà phòng. Bóng màu lấp lánh bay cao lên mãi, không vỡ cho tới khi tầm mắt đầu hàng tầng không gian trắng rợn của bầu trời. Rồi nhảy cẫng lên, a ha, cuối cùng là màu trắng!

Sông quê hoài vọng - Nhụy Nguyên

Tuổi thơi tôi gắn với đồng ruộng. Vui thích được kì cọ cho trâu mỗi chiều và thỏa chí vùng vẫy giữa sông làng xanh mát. Xóm ở gần sông, nhà nào có con trai cha mẹ đều gắng mua cho cái nơm, to tát hơn là tấm lưới xuống sông bắt cá. Lũ con gái như chị tôi thì cất rớ. Cha tôi vót tre và lấy cái mùng cũ cắt ra; mẹ tôi khâu viền quanh những tấm mùng vuông vức ấy rồi buộc bốn đầu ngọn tre, uốn cong - thành rớ. Mỗi lần đi cất mèm cũng vài ba chục rớ. Chiều chiều lứa chị tôi lại rủ nhau đi cho tới khoảng sáu giờ mới về. Tép liều mạng nhất chừng chập choạng, mặt trời au au đỏ và gió từ bên kia rào pha lạnh lùa sóng tiến vô bờ chầm chậm...

Thầm cảm ơn sông nuôi cây lúa, để cha mẹ nhọc nhằn cõng anh em tôi về miền sáng. Nhớ cánh đồng sông quê mỗi chiều trên con đường mòn vẹt cỏ, chúng tôi lũ lượt lùa trâu về. Đứa xách xâu nhái, đứa xách bao đạm, bao châu chấu, cào cào, đứa mê man hát xẩm. Những đứa hay chăm tắm cho trâu bò thì dắt ra sông khoát nước và dùng rơm kỳ cọ, con nào con nấy khoái nhăn răng, ngụp miệng xuống nước thở phò phò thỏa mãn sau một ngày kéo cày mệt mỏi. Nhà tôi hồi đó nuôi trâu chứ không nuôi bò, chính vì gia đình còn được xóm phân cho mảnh ruộng biền (bên mép sông). Cày ở biền phải dùng trâu. Gặt ở biền phải dùng hái (lưỡi hái được gắn vào thanh tre uốn cong, bó lúa vào tay rồi đẩy ngược). Gặt ở biền là cả một ngày hội. Người dùng thuyền, người xếp ván làm bè, ai cũng phải đưa một cái ghế dài chắc chắn bó lúa; chỗ hò hét, chỗ nói chuyện rỉ rả, chỗ trẻ em thanh niên tranh thủ giăng lưới... Ở biền đỉa rất nhiều. Đỉa trâu to và đen, không ai khỏi bị chúng hút máu cho dù đã mang tất dày, bôi vôi. Gặt ở biền đàn bà con gái kham không nổi, phải có đàn ông mới xuôi. Thời gian sau này gia đình tôi thôi làm ruộng biền bởi lúa chiêm năng suất thấp. Kể từ ngày đó tôi không còn lội xuống sông nữa. Nay đã không hình dung nổi dải đất biền chạy dài thênh thênh bên kia. Có còn những đám ruộng không thể xếp vào loại hình nào trong môn hình học, mà muốn biết diện tích phải chia ra tính hàng chục hình khác nhau rồi cộng lại. Bên nớ mùa này đất nứt toe như quả dưa gang chín nhũn. Những đàn chim Sa Chi bắt đầu bay về nhặt những hạt lúa sắp nảy mầm, miệt mài cho tới lúc bóng người đầu tiên làm vụ mới xuất hiện đầu cổng làng. Trong vòng một tuần, chỉ còn mươi cái xác khô rang, và đôi con trụ lại nhảy cà khiểng trên mặt sông mỗi đêm chờ bạn...

Vào những đêm trăng mùa hạ, lũ chúng tôi thường tụ tập trên cầu Trù để hóng gió. Gió từ sông thổi vào mát lạnh. Trong làng có rất nhiều nhà đi cấy dưới ánh trăng. Năm ấy trời đại hạn, ruộng đồng đâu đâu cũng nứt vết chân vịt. Buổi tối, loa xóm thông báo ngày mai sẽ có nước ở đập Cu Lân về. Cả gia đình tôi đã tập trung ra đồng gặt cho xong thửa ruộng để mai kịp cày gieo mạ. Trăng vằng vặc sáng. Thả bó lúa đứng lên chợt nghe tiếng ai gọi, trong vắt, đâm bổ vào hồn chết lặng ở đấy. Tôi ngẩn ra giữa ruộng.

Bây giờ cầu đã không còn. Hồi còn học phổ thông, cầu Trù đã cũ rích, các thanh chắn gỉ sét. Dấu ấn của bọn Pháp để lại, cũng là chứng tích bao công sức và máu xương của người dân vùng này. Dưới kia mấy cuộc đời? Cầu Trù, nơi chứng kiến những trận quyết tử. Chúng đã xử bắn người trên chiếc cầu này. Không nhiều, chỉ là để chứng minh cho cái lý thuyết tàn ác của kẻ thù: có quyền giết người ở bất cứ nơi đâu. Xác người ngã xuống mặt sông trôi mãi. Trôi cho tới khi viên đạn từ họng súng trên cầu Trù bay không đến nơi mới được vớt lên đất quê yên ngủ. Nhớ cầu Trù. Nhớ sông quê. Nhớ Trạm Bơm. Tôi nhớ những đám ruộng đã gặt từng chân trần giẫm lên gốc rạ. Một cảm giác thân thương vừa êm vừa cấn cái ngưa ngứa lòng bàn chân. Gió đêm lướt thướt lộ cả hình hài giữa lưng chừng màu tối...

Đêm đầu tiên trở về quê sau ngót chục năm lăn lộn phố phường, tôi đã tìm ra em tại Trạm Bơm. Mặt sông trong đêm không gợn sóng. Chốc chốc lũ cá lại đớp hờ trên mặt nước, còn lũ tép nhảy lên nghe tanh tách. Như mừng vui, lại như đau đớn. Hai đứa ôm chầm lấy nhau, nhiều góc cạnh của đời lộ liễu. Có niềm vui sướng của ái tình len trong giọt mắt rớt vội...

 N.N

Nguồn: vanvn.net