Tín ngưỡng thờ Thiên Y Ana ở Ngũ Hành Sơn - Ngọc Giao
Thiên Y Ana còn gọi là Pô Inư Nagar (tiếng Chăm gọi pô là ngài, là bà; inư là mẹ; nagar là xứ sở, đất nước hay đô thị). Bà được xem là thần Mẹ xứ sở của người Chăm. Tuy nhiên, thật khó xác định Thiên Y Ana được thờ tự từ bao giờ? Cho đến nay, không còn những dấu tích vật chất liên quan đến nguồn gốc tín ngưỡng của người Chăm về Bà. Nhưng qua các truyền thuyết, các địa danh mang thánh tích lại cho chúng ta biết tục thờ nữ thần Thiên Y Ana dường như có mặt trên khắp lãnh thổ của vương quốc Chămpa xưa.
1. Thiên Y Ana được người Chăm xem là thần Mẹ xứ sở. Theo thời gian, sự biến đổi từ Mẹ xứ sở/Pô Inư Nagar của người Chăm thành Bà Diễn Ngọc Phi Chúa Ngọc (hay Bà Chúa Ngọc) của người Việt để dễ dàng trong việc tiếp nhận và thờ cúng. Dưới thời Nguyễn, Bà được phong tặng danh xưng bằng mỹ tự: “Hồng Nhân Phổ Tế, Linh Cảm Diệu Thông Mặc Tướng Trang Huy Dực Bảo Trung Hưng Thượng Đẳng Thần”.
Người ta tương truyền, Thiên Y Ana là một nàng tiên được giáng xuống núi Đại Điền (Khánh Hòa). Thuở ấy có hai vợ chồng già sống bằng nghề trồng dưa ở sườn núi. Khi dưa chín thường bị hái trộm. Đêm nọ, ông thấy một cô gái độ 13, 14 tuổi cầm dưa vần chơi dưới bóng trăng. Ông đón lại gạn hỏi thì ra chính là người đã hái trộm dưa của mình. Ông thương cô gái nhỏ nhưng rất xinh bèn đem về nuôi và hết lòng thương yêu. Ngày nọ, cô gái giận cha và biến mình vào cây già nam trôi theo dòng nước lũ rồi giạt vào bờ biển phương Bắc. Người phương ấy thấy cây thơm lạ rủ nhau khiêng về nhà, nhưng nặng quá không nhấc lên nổi. Vị thái tử nước ấy nghe nói bèn đến xem, rồi xuống vớt cây nâng lên tay đem về cung. Thái tử khi ấy vừa 20 tuổi, chưa có vợ, thường ngày đến vỗ về thân cây, trong lòng bồi hồi vương vấn. Có khi chợt thấy bóng trắng thoang thoảng mùi thơm, trông lờ mờ như có người thoáng đi đến, nhiều lần như thế trong lòng lấy làm lạ. Đêm nọ, khi mọi người đều yên giấc, thái tử đi đến chỗ cũ rình xem thì cũng lại thấy như đêm hôm trước, liền đi sát đến tận nơi thì ra là một cô gái đẹp. Chàng giữ cô gái lại và sau đó hai người kết hôn. Vợ chồng ăn ở với nhau được ít lâu, sinh được một con trai đặt tên là Tri và một con gái tên là Qui.
Một hôm Bà nhớ quê cũ bèn dắt hai con nhập vào cây gỗ hương, vượt biển tìm về núi Đại Điền. Đến nơi thì hai ông bà đã mất, Bà bèn lập đền tại chỗ ấy để phụng thờ và dạy cho người dân những phép tắc và cách làm ăn, sau đó bay lên trời đi mất. Vắng Bà, thái tử sai người đi khắp nơi tìm kiếm. Khi đến đây, bọn lính giở giọng hách dịch hà hiếp dân sở tại và không kính trọng thần. Tức thì một trận cuồng phong nổi lên làm cho chiếc thuyền chở bọn chúng bị lật úp xuống hóa thành một đống đá to. Từ đấy về sau, Bà càng hiển linh. Dân địa phương ngưỡng vọng cho là thần, cầu khẩn việc gì thường được ứng nghiệm bèn xây hai ngọn tháp trên núi Cù Lao để thờ phượng.
Ngoài ra, còn có nhiều truyền thuyết khác về Thiên Y Ana. Từ đó cho thấy, Thiên Y Ana là vị nữ thần bản địa có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của người Chăm. Trải dài theo thời gian, vị nữ thần người Chăm đã có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống tâm linh của người Việt trên vùng đất mới. Giữa họ có sự giao thoa, tiếp nhận qua lại giữa các yếu tố văn hóa phù hợp giữa hai tộc người Việt - Chăm, Chăm - Việt cho dù những vùng đất mà sau này khi người Chăm rút dần vào phía Nam, người Việt đến khai phá vẫn bảo lưu những tín ngưỡng văn hóa dân gian của họ và được Việt hóa, thể hiện sự thờ kính, giữ gìn, tôn trọng sự linh thiêng của thần, trong đó có quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
2. Qua khảo sát, bước đầu chúng tôi phát hiện trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn có 8 ngôi miếu thờ Bà Chúa Ngọc và Bà Chúa Lồi1 như: miếu Bà Chúa Ngọc làng Hóa Sơn, miếu Bà Chúa Ngọc làng Sơn Thủy, miếu Bà Chúa Lồi nằm bên cạnh miếu Bà Chúa Ngọc ở làng Sơn Thủy (phường Hòa Hải); miếu Bà Chúa Ngọc phường Khuê Mỹ; miếu Bà Chúa Lồi ở phường Mỹ An; miếu Bà Chúa Ngọc, miếu Bà Chúa Lồi trong động Huyền Không, và miếu Bà Chúa Ngọc trong động Tàng Chơn, thuộc Khu danh thắng Ngũ Hành Sơn.
Có thể nói, Bà Chúa Ngọc là danh xưng phổ biến của nữ thần Thiên Y Ana được người dân ở khu vực Ngũ Hành Sơn dùng để gọi tên vị nữ thần trong các miếu thờ của mình. Tên của Bà thường dùng để gọi tên của ngôi miếu. Bà được người dân ở đây quan niệm là Mẹ Đất, có lúc lại đồng nhất Bà với trời, đôi khi người ta lại gán cho Bà là một con người bằng xương bằng thịt ở trong làng, vì một lý do nào đó mà qua đời, sau này có công trong việc phò trợ, giúp đỡ nhân dân. Việc thờ phụng Bà Mẹ Đất đối với cư dân Ngũ Hành Sơn từ thuở khai hoang lập ấp đến nay thường mang hai ý nghĩa, một mặt họ quan niệm “Mẹ” là yếu tố âm, gắn với đất, để đối đãi với “Cha” mang tính dương, gắn với trời. Đó là quan niệm mang tính phổ quát trong quan niệm của người phương Đông và người Việt. Mặc khác, đối với vùng đất Ngũ Hành Sơn khi người Việt mới đặt chân tới, thì bà Mẹ Đất ở đây có nghĩa là vị Thần Đất của người dân bản địa thuở trước (người Chăm). Do vậy, thờ vị thần của cư dân bản địa để cầu mong sự che chở, phù hộ thì đó cũng là quan niệm truyền thống của những di dân người Việt trên bước đường Nam tiến. Vào những thập niên đầu của thế kỷ XX bác sỹ Albert Sallet đã cho biết về sự linh ứng của Bà: “Người làng Quán Khái nói rằng, nhiều biểu hiện tương tự được lặp lại, đôi khi tại nhà người giữ sắc phong. Người ta thuật về Bà: Một đứa trẻ làm tổn hại đến chùa Tam Thai, ăn trộm trong hộp trầu của các bàn thờ. Nó bị phạt lập tức, bất động không cựa quậy gì được, người không một chút sinh khí, bất lực hoàn toàn dù chỉ là một cử động nhỏ, như thể có sợi dây vô hình trói buộc. Bà Ngọc sai âm binh bộ hạ, và những kẻ khuất mặt này trừng phạt đứa bé ăn trộm, tiếp ngay sau đó Bà đã cởi trói khi người ta chạy đến cầu khẩn trước bàn thờ Bà. Cái hộp sắc được giữ nơi làng Quán Khái”.2
Trong một sắc phong của vua Minh Mạng cho xã Hóa Khuê Đông đã ca ngợi công đức của Bà: “Sắc tặng vị nữ thần Thiên Y Ana Diễn Phi Chúa Ngọc là bậc thần có công phò nước giúp dân, công đức rất sáng rõ, đã được xã dân phụng thờ. Từ khi đức Thế tổ Cao hoàng đế ta thống nhất bờ cõi, mang lại hạnh phúc cho cả thần linh và con người. Nay ta vâng nối nghiệp lớn lên nối ngôi, chạnh nghĩ đến đức tốt của các bậc thần linh, nên trân trọng nêu lên những danh hiệu quý, để gia tặng ngài danh hiệu: Hồng Nhân Phổ Tế Linh Cảm đứng ở bậc Thượng đẳng thần, (nhưng có lẽ nên dịch là “vẫn”, nhưng là âm Hán Việt, vô tình vào đây trùng với âm “nhưng” - liên từ của tiếng Việt, lại khác nghĩa đi) chuẩn cho xã Hóa Khuê Đông, huyện Diên Phước được phụng thờ như cũ. Ngài hãy vừa giúp bảo hộ cho đám dân đen của ta. Hãy kính cẩn vâng mệnh. Ngày mười một, tháng hai, năm Minh Mạng thứ hai”.
Trong 8 ngôi miếu thờ Bà ở Ngũ Hành Sơn thì có đến 6 nơi có linh tượng Bà như: miếu Bà Chúa Ngọc làng Hóa Sơn, miếu Thiên Y Ana làng Sơn Thủy, miếu Bà Chúa Lồi nằm bên cạnh miếu Bà Chúa Ngọc ở làng Sơn Thủy (Hòa Hải); miếu Bà Chúa Ngọc và miếu Bà Chúa Lồi trong động Huyền Không; và ngôi miếu trong động Tàng Chơn thuộc Khu di tích danh thắng Ngũ Hành Sơn (Hòa Hải), hai ngôi miếu còn lại không thờ tượng Bà.
Ngày nay, những ngôi miếu thờ Bà trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn không còn vẻ cổ kính, bởi trải qua nhiều năm tháng, thời gian, chiến tranh, bom đạn tàn phá vùng đất này nên những di tích miếu thờ cũng chịu chung số phận bị hủy diệt, chỉ có hai ngôi miếu ở trong động Huyền Không, một ngôi miếu trong động Tàng Chơn và một ở phường Khuê Mỹ là còn giữ được những dấu ấn kiến trúc cổ như mái lợp ngói âm dương, được khắc các họa tiết trang trí cổ kính.
3. Hàng năm vào dịp Xuân Thu nhị kỳ, tại các ngôi miếu, người dân địa phương tiến hành cúng tế Bà rất thành kính. Phần nghi lễ tế Bà trong các lễ cúng thường giống nhau, gồm: Lễ tế Âm linh, Lễ Cáo, Lễ Chánh. Ba năm một lần người ta tổ chức đại lễ. Lễ vật dâng cúng gồm hương hoa, áo giấy, đồ ăn chay và đồ ăn mặn, có nơi thì cúng heo quay, có làng thì cúng cả con bê. Trước đây dâng lễ thì có đồng tử đội mâm lăn lộn nhiều vòng vào miếu (lăng) dâng lễ. Nhưng ngày nay, với phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới thì hình thức dâng lễ trước kia được bãi bỏ, thay vào đó chỉ dâng lễ một cách đơn giản do ông chánh tế thực hiện: sau khi tẩy uế, xin keo thì dâng lần lượt từng mâm lên bàn thờ. Vào ngày lễ, nhân dân tập trung đông đủ tại miếu và cùng chuẩn bị các đồ lễ dâng lên Bà. Trong ngày này, họ đến đây để tỏ lòng kính nhớ tới Bà và cầu an, cầu Bà giúp cho “quốc thái dân an, phong điều vũ thuận”, mùa màng bội thu, công việc làm ăn được hanh thông, thuận lợi.
N.G
CHÚ THÍCH
1 Bà Chúa Lồi còn có tên là Giàng Lồi, Lồi Phi. Một số người cho rằng, Bà Chúa Ngọc và Bà Chúa Lồi là hai chị em. Chẳng hạn, bác sỹ Albert Sallet cho rằng: “Hai Bà Thiên Phi này, có thể là hai chị em, không chỉ có cùng một hành động và tôn vinh mà có một nguồn gốc rõ ràng, minh bạch về trạng thái giống nhau của hai nhân vật bằng đá, mặc dầu những nét cương nghị của họ trên bề mặt đã bị sửa sang lại. Như Bà Ngọc, Bà Lồi Phi có thể là xuất xứ Chàm, cả hai Bà đều được chuyển từ những tẩm thờ cũ xưa, người An Nam do có tính xuê xoa dễ dung nạp, đem theo về động này để thờ”. Nhiều người khác lại cho cho rằng, Bà Chúa Ngọc và Bà Chúa Lồi đều là hóa thân của nữ thần Thiên Y Ana, bởi trên mảnh đất miền Trung, hầu như nơi nào có vết tích của nền văn hóa Champa thì thường có những hóa thân của Thiên Y Ana hiện diện rất nhiều như Bà Bô Bô, Chúa Yàng,...
2 Albert Sallet. Ngũ Hành Sơn (Bản dịch của Nguyễn Sinh Duy). Nxb Đà Nẵng, 1996, tr.126.