Thơ ca kháng chiến từ thời sự đến kết tinh
Minh họa đoàn binh Tây Tiến trong thơ Quang Dũng. Ảnh Nhà xuất bản Kim Đồng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự kiện lịch sử trọng đại chẳng những mở ra một thời đại mới của dân tộc ta mà còn mở ra một thời đại mới cho thi ca. Để thích ứng với tình hình mới, Hội Văn hoá cứu quốc được thành lập và hoạt động trong thời kỳ bí mật được đổi tên thành Hội Văn hoá Việt Nam nhằm thu hút, tập hợp rộng rãi đội ngũ đông đảo văn nghệ sĩ cả nước. Khi tiếng súng toàn quốc kháng chiến bùng nổ thì đội quân văn hoá đều hăng hái lên đường đồng hành cùng dân tộc.
Với những nét đặc thù của sáng tạo, sự phát lộ của thơ ca thường mang tính ngẫu nhiên, ngoài sự đoán định. Suốt một cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài 9 năm, trong lúc các cỗ trọng pháo của Thơ mới như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tế Hanh đang còn phải loay hoay trước một hiện thực mới quá ngỡ ngàng thì một lớp thi sĩ mới xuất hiện mang đến vẻ đẹp rõ ràng, khoẻ khoắn và mới mẻ cho thơ ca kháng chiến. Điều bất ngờ là những bài thơ đầy sinh khí ấy lại xuất hiện sớm nhất ở những vùng chiến sự ác liệt nhất. Đó là Tình sông núi và Nhớ máu của Trần Mai Ninh từ mặt trận Nam Trung Bộ. Tiếp đến là Cá nước của Tố Hữu được viết ngay trên đường chạy giặc từ Thái Nguyên về Bắc Giang, vượt Tam Đảo sang lập đại bản doanh văn nghệ kháng chiến tại Phú Thọ. Liền sau đó là Bầm ơi, một bài thơ được xem như kinh nhật tụng của những anh bộ đội Cụ Hồ. Trong những ngày đầu kháng chiến, khi chúng ta đang phải căng sức đánh địch trong vòng vây thì một loạt bài thơ của những người trực tiếp cầm súng xuất hiện làm náo nức lòng người. Đời lính bước vào văn chương và văn chương bước vào đời lính. Đó là Đồng chí của Chính Hữu, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Tây Tiến của Quang Dũng, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đèo Cả của Hữu Loan. Đó là những bài thơ kết tinh rất sớm hơi thở thời đại và tài năng nghệ sĩ, thể hiện sống động tinh thần văn hoá kháng chiến, kháng chiến hoá văn hoá. Nhìn sang lĩnh vực âm nhạc, chúng ta cũng thấy sự kết tinh sớm này với Du kích sông Thao của Đỗ Nhuận, Trường ca sông Lô của Văn Cao, Tiểu đoàn 307 của Nguyễn Hữu Trí phổ thơ của Nguyễn Bính.
Sau khi Hội Văn nghệ Việt Nam được thành lập năm 1948, văn nghệ sĩ nô nức tòng quân lên đường tham gia các chiến dịch. Chiến tranh nhân dân và người lính cách mạng trở thành đề tài trung tâm của văn học ta. Thơ ca kháng chiến lớn lên cùng với sự lớn lên của đất nước. Với thời gian, đề tài về người lính càng ngày càng được làm sâu sắc thêm trong ba mối quan hệ: Tình yêu nước, tình đồng đội và tình quân dân. Từ vùng hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh mà cái nôi là các lớp đào tạo tại Quần Tín Thanh Hoá lại xuất hiện thêm những nhà thơ mới, làm giàu thêm cho đội ngũ thi ca kháng chiến. Đó là Hồng Nguyên với bài Nhớ, Hoàng Trung Thông với Bộ đội về làng, Trần Hữu Thung với Thăm lúa, Minh Huệ với Đêm nay Bác không ngủ.
Tại căn cứ địa Việt Bắc, người ta càng ngày càng nhận rõ hơn vai trò lãnh đạo và hiệu quả hoạt động của Hội Văn nghệ Việt Nam với Nguyễn Tuân làm Tổng thư ký, Tố Hữu là Phó tổng thư ký. Với Tố Hữu, vai trò lãnh đạo và sáng tác thơ ca được kết hợp hài hoà với nhau làm nổi bật danh hiệu lá cờ đầu của thơ ca kháng chiến. Tập thơ Việt Bắc của anh là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954.
Sau ngày hoà bình không lâu, bài thơ Núi Đôi của Vũ Cao xuất hiện ghi thêm một dấu son cho thơ ca kháng chiến.
Được kế thừa một nền thơ khá cao của văn học chống Pháp, bước vào giai đoạn chống Mỹ, văn học ta được bổ sung một đội ngũ đông đảo các cây bút trẻ ở cả hai miền Nam - Bắc, các quân khu quân binh chủng. Thơ ca vẫn là lĩnh vực đi tiên phong, bắt nhạy với hiện thực mới đồng thời với sự kết tinh mới, những bài thơ “từ miền Nam gửi ra” của Giang Nam, Thanh Hải, Lê Anh Xuân, Thu Bồn, Nam Hà, Trần Vàng Sao… được công chúng đón nhận nồng nhiệt. Ở miền Bắc, xuất hiện nhiều giọng điệu thơ mới mẻ, ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh và vùng tuyến lửa khu Bốn với Nguyễn Mỹ, Xuân Quỳnh, Vũ Quần Phương, Phan Thị Thanh Nhàn, Thái Giang, Nguyễn Xuân Thâm, Trúc Thông, Hoàng Nhuận Cầm, Anh Chi, Nguyễn Duy, Lâm Huy Nhuận, Văn Đắc, Quang Huy, Thạch Quỳ, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hoàng Vũ Thuật, Lê Thị Mây, Vương Trọng, Vũ Duy Thông, Nguyễn Hoa… Tập thơ Hương cây - Bếp lửa của Lưu Quang Vũ và Bằng Việt cho đến nay vẫn được xem là một tập thơ hay, thể hiện sự kết tinh sớm của thơ ca chống Mỹ. Các cuộc thi thơ của Tuần báo Văn nghệ Hội Nhà văn được tổ chức thường xuyên, có tác dụng to lớn trong phát hiện tài năng trẻ. Trong đó cuộc thi thơ năm 1969 với giải Nhất là Phạm Tiến Duật có tiếng vang như một hiện tượng văn học, góp phần đưa thơ ca chống Mỹ tới đỉnh cao.
Giàu khát vọng, năng nổ tìm tòi, phát hiện, mở rộng đề tài, chủ đề, huy động và chuyển hoá tối đa các chi tiết đời thường thành hình tượng nghệ thuật, đề cao ý thức công dân và trách nhiệm xã hội được xem là dấu ấn thế hệ của các nhà thơ chống Mỹ. Nói chia ly mà không làm người ta tuyệt vọng, nói mất mát, hy sinh mà không làm cho người ta nản lòng, khoẻ khoắn mà không lên gân, đau đớn mà không bi luỵ, học tập quá khứ mà không sa vào lối mòn, mạnh mẽ, cách tân mà không rơi vào chủ nghĩa hình thức, khai thác mọi ngõ ngách của hiện thực muôn màu mà không đi ra ngoài quỹ đạo chân thiện mỹ. Đó là những phẩm chất làm nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn của thơ ca kháng chiến. Thơ trong bão lửa, sống chết mà người đọc cảm thấy cái bình tâm bên trong, không né tránh mọi mất mát, gian khổ mà vẫn thấm đẫm tình người, đó chính là cái thế thượng phong của một dân tộc trước những thách thức hiểm nghèo của lịch sử. Những bài thơ đó đã trở thành thứ lương thực tinh thần không thể thiếu của những người lính trên mọi nẻo đường kháng chiến.
Sát cánh cùng lớp trẻ, các nhà thơ lớp trước vững bước đi vào cuộc kháng chiến lần thứ hai với sự kết tinh mới. Đó là Tố Hữu với trường ca Non nước ngàn dặm, Chế Lan Viên với Những bài thơ đánh giặc, Nguyễn Đình Thi với Chia tay trong đêm Hà Nội, Chính Hữu với Ngọn đèn đứng gác… Cuộc họp mặt “tam thế đồng môn” này tạo cho nền thơ hiện đại của chúng ta một diện mạo mới chưa từng có.
Các nhà thơ chống Mỹ sát cánh cùng cuộc sống, lớn lên cùng cuộc sống, vừa xông xáo vào các đề tài thời sự, vừa gấp gáp tích luỹ vốn sống, chuẩn bị cho những tác phẩm dài hơi. Và chẳng lâu sau khi chiến tranh kết thúc, một loạt trường ca của Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Thi Hoàng, Anh Ngọc, Nguyễn Trọng Tạo, Trần Nhuận Minh, Trần Anh Thái, Y Phương… ra đời. Trong các trường ca đó, tính sử thi và chất trữ tình kết hợp nhuần nhuyễn với tính bình luận và triết luận làm nên một tổng phổ phức hợp cho mỗi tác phẩm. Sự xuất hiện của các trường ca mang tính tổng kết chiến tranh vừa khép lại một chặng đường vừa mở ra một chặng đường mới cho sự phát triển của thơ ca khi đất nước bước vào hai cuộc chiến tranh biên giới và bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
(baovannghe.vn)