Sự hình thành và phát triển của thể thơ lục bát trữ tình trong văn học Việt Nam
Xét về cấu trúc, mọi người đều biết, thể thơ lục bát là một cấu trúc biểu đạt, tạo thành một thể thức cách luật cố định gồm dòng thơ, số chữ (trên sáu dưới tám), bằng trắc. Công thức của nó, xét ở mô hình lí tưởng, là OBOTOB, OBOTOBOB, OBOTOB, OBOTOBOB (ở đây, B là bằng, T là trắc, O là có thể bằng hoặc trắc) rồi cứ thế mà luân chuyển, lặp đi lặp lại. Nó cũng có “luật” nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục bát phân minh, nhưng không chặt chẽ (nếu ngắt nhịp 3/3 hay 3/3/2 thì khác) và gieo vần, vần chân, vần lưng đều vần bằng, bắt buộc. Riêng hai tiếng 6 và 8 câu tám, nếu tiếng này thanh trầm (dấu huyền) thì tiếng kia thanh bổng (không dấu).
Đặc trưng của nó là có thể móc xích từng cặp với nhau, nhưng không khép, có thể ngắn, có thể kéo dài đến vô tận. Bài hai câu cũng được, mà bài hàng nghìn câu cũng tốt. Do thế, nó có thể biểu đạt nhiều loại nội dung, thuộc nhiều thể loại văn học khác nhau qua trường kì lịch sử. Trái lại thể thơ như thất luật của thơ Đường chỉ có thể biểu đạt một loại nội dung, không thể kéo dài, mà chỉ nằm trong khuôn khổ của thơ ngắn, 4 câu hay 8 câu là nhiều nhất. Nhìn bề ngoài, lục bát có vẻ nhịp nhàng, đều đều, đơn điệu, nhưng tùy tài năng người dùng mà nó có thể biểu hiện mọi cung bậc của tình cảm con người.
Qua nhiều thời đại, từ truyền miệng dân gian đến sáng tác của văn nhân, thể thơ lục bát có nhiều thay đổi quan trọng, chủ yếu là khắc phục sự tự do hóa của sáng tác dân gian, luật hóa chặt chẽ về cách luật, như vị trí gieo vần, đa dạng hóa vị trí ngắt nhịp và đăng đối hóa từ vựng để câu thơ tề chỉnh, hàm súc và dư ba, theo hướng cổ điển hóa, như lục bát của Truyện Kiều. Nguyễn Du chính là người đặt nền móng cho thơ lục bát văn học.
Xét về lịch sử, có người nói lục bát bắt nguồn từ thơ Chăm, nhưng tiếng Chăm là ngôn ngữ đa âm tiết, không thể có thơ lục bát được. Tiếng Việt có cội nguồn Nam Á của nó, quá trình chuyển từ tiếng đa âm tiết sang đơn tiết tính vào khoảng thế kỉ XII - XV, cho nên phải vào khoảng ấy mới hình thành thơ ca đơn tiết của người Việt. Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi còn để lại dấu vết của từ đa tiết. Thư tịch cổ nước ta đã cho thấy lục bát xuất hiện vào đầu thế kỉ XVI (1504) với Lê Đức Mao, dưới dạng chưa phân hóa với thơ song thất lục bát, lúc đó còn chưa tách khỏi lối hát cửa đình.
Ông Nguyễn Văn Hoàn xem cội nguồn lục bát có từ cuối thế kỉ XV, không biết dựa vào tư liệu nào. Bảo rằng “đi tìm dạng sơ khai của lục bát là chuyện thiên nan vạn nan” rõ ràng là không đúng, bởi vì dạng sơ khai của nó ở đây rồi chứ còn ở đâu nữa! Lục bát xuất hiện trong lời hát với tính nguyên hợp thì chưa phải là hình thức của thơ, chưa ai coi nó là hình thức thơ. Việc các tác phẩm Vương Tường, Tô Công phụng sứ, Lâm tuyền kì ngộ viết vào đầu thế kỉ XVII, tự sự bằng thể thơ Đường luật, chứng tỏ lúc này, sau hơn 100 năm xuất hiện, thể lục bát vẫn chưa sẵn sàng để có thể được vận dụng vào kể chuyện trên văn đàn.
Không rõ bằng cách nào mà lục bát trở thành hình thức văn học, và sang cuối thế kỉ XVII đã xuất hiện nhiều tác phẩm tự sự lớn bằng lục bát như Việt sử diễn âm thời nhà Mạc (2332 dòng), Thiên Nam ngữ lục thời chúa Trịnh (8136 dòng) và một số tác phẩm khác. Cái lạ là, từ một thể thơ trong ca dao thường rất ngắn, mà người ta nghĩ ra được cách viết dài hàng nghìn dòng thì đã là một sáng tạo. Phải chăng nhờ kinh nghiệm của những người kể vè?
Nhờ những kinh nghiệm đó mà xuất hiện các tác phẩm truyện Nôm khuyết danh như Thạch Sanh, Phương Hoa, Phan Trần, Nhị Độ Mai, Tống Trân - Cúc Hoa, Phạm Tải - Ngọc Hoa, rồi đến các tác giả hữu danh như Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Thiện, Phạm Thái, Lý Văn Phức… và đỉnh cao là Nguyễn Du với Truyện Kiều. Vấn đề là thời kì này số người biết sáng tác với thể lục bát rất nhiều, tại sao không ai đem thể lục bát vào sáng tác thơ trữ tình? Nguyễn Du chẳng hạn, ông rất sành thơ lục bát mà mỗi khi trữ tình ông đều tìm đến thể thơ Đường luật.
Thể Đường luật có thể nói là thể loại thơ “vua” trong suốt thời trung đại, không thể thơ nào cạnh tranh được với nó. Suốt thế kỉ XIX rất ít người viết thơ trữ tình lục bát. Nhà thơ Hồ Xuân Hương không viết một bài lục bát nào. Cả đời Nguyễn Công Trứ rất nổi tiếng với hát nói, trong hát nói có thành phần lục bát, nhưng ông chỉ có duy nhất bài lục bát là Vịnh cây thông. Nguyễn Khuyến rất sành thơ Đường luật Nôm, nhưng chỉ có hai bài lục bát (Vịnh ông phỗng đá, Chúc thọ 80). Tú Xương thơ Nôm nổi tiếng, chỉ để lại một bài lục bát Sông Lấp. Có vẻ như suốt nhiều thế kỉ thể thơ lục bát không lọt vào mắt các nhà thơ trữ tình, và trong mắt họ, chỉ có Đường luật và Đường luật.
Thực sự thơ trữ tình lục bát chỉ mới bắt đầu từ Tản Đà và ít nhiều với Á Nam Trần Tuấn Khải. Tản Đà vận văn toàn tập ghi được 38 bài thơ lục bát, phần phong thi tức là làm theo kiểu ca dao có 52 bài, dịch thơ Đường thành lục bát 56 bài, các bài lục bát khác nữa, cộng hơn 150 bài. Một con số áp đảo so với các thể thơ khác trong tập như thơ Đường luật (75 bài), tuyệt cú (22 bài), thơ bảy chữ trường thiên chia khổ.
Chúng ta có thể gọi Tản Đà là người khởi đầu cho thơ lục bát trữ tình trong thơ Việt Nam (Tản Đà vận văn toàn tập, tập 1, Hương Sơn, 1952, sách này thu thập còn sót, so với Tổng tập văn học Việt Nam, tập 25, hay với Tản Đà toàn tập). Nếu như thế, sau khi ra đời vào đầu thế kỉ XVI, phải trải qua đúng 400 năm thể thơ lục bát mới trở thành thể thơ trữ tình. Rõ ràng thể thơ lục bát và thơ trữ tình lục bát đâu có nảy sinh vào một lúc. Nói cho đúng, thơ lục bát Tản Đà rất đặc biệt, vừa tự sự vừa trữ tình, nhưng tính trữ tình còn hạn chế. Bài thơ hay như Thề non nước không nhiều.
Trần Tuấn Khải có 123 bài làm theo thể ca dao lục bát, 3 bài lục bát. Qua sáng tác của Tản Đà và Trần Tuấn Khải, ta thấy có bước chuyển từ thể ca dao sang thơ trữ tình, đó là những người đầu tiên biến thể thơ lục bát ca dao thành thể thơ trữ tình. Tại sao Tản Đà mặn mà với thể lục bát? Đó là vì ông muốn tự do, mà thơ luật quá chật chội. Chính Tản Đà đã nói: Nếu không phá cách vứt điệu luật/ Khó cho thiên hạ đến bao giờ?
Vì muốn được biểu hiện tự do mà ông đã tìm đến thơ lục bát, một thể thơ ít bị gò bó hơn so với Đường luật. Tuy nhiên thơ lục bát của Tản Đà vẫn thuộc phạm trù thơ cũ, tư duy cũ. Thơ dịch của ông tái hiện tình thơ cũ. Các bài như Thề non nước, Nói chuyện với bóng, Trông trăng cảm tưởng… là thơ trữ tình, nhưng viết theo lối kể tình, với những lời có sẵn của thi pháp tu từ trung đại. Ông từng nói ở đây là “mượn câu sẵn mà khiến nghĩa riêng”, thi pháp dùng câu sẵn khiến thơ ông có phần dễ dãi. Ông đã sử dụng thể lục bát làm nhiều hình thức thù tạc, như làm lời cảm ơn người cho rau sắng, cảm ơn người cho sâm, cho hà, thư gửi bạn... Một số bài ghi cảm tưởng đi chơi các danh thắng như chơi cầu Hàm Rồng, chơi Huế, chủ yếu là tả cảnh.
Qua các bằng chứng nêu trên ta có thể nói, thể lục bát tuy có truyền thống lâu đời, song đem dùng vào thơ trữ tình quả là rất muộn. Phong trào Thơ mới 1932 - 1945 là giai đoạn thứ hai của thơ trữ tình lục bát với hàng loạt tác giả như Thế Lữ, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân, Hàn Mặc Tử, Huy Cận… Lục bát của Nguyễn Bính là tiêu biểu nhất. Lục bát thời này mới thực sự trữ tình. Thơ lục bát của Nguyễn Bính như Chờ nhau, Người hàng xóm, Lỡ bước sang ngang… không còn là ca dao, cũng không còn là thơ truyền thống mà đích thị là “thơ mới”, bởi điệu nói(1), tính cá thể và cấu trúc giọng điệu lời nói.
Cái mới của nó trước hết là điệu nói như một nguyên tắc thẩm mĩ. Nó phát hiện vẻ đẹp của lời nói, chủ trương mô phỏng lời nói thông thường. Thơ điệu nói hướng tới tái hiện giọng nói, tiếng nói của những con người cụ thể trong hoàn cảnh cá biệt, cụ thể. Tiếng nói của người yêu, người mẹ, người chị, của người quan sát, người kể chuyện, tiếng nói thầm trong tâm hồn. Tâm hồn tôi là tập thơ xôn xao đầy tiếng nói thầm của tâm hồn. Đây là lời người con gái nói thầm với người yêu đang hò hẹn trong bài Chờ nhau (còn gọi là Lẳng lơ): Láng giềng đã đỏ đèn đâu/ Chờ em chừng giập miếng giầu em sang/ Đôi ta cùng ở một làng/ Cùng đi một ngõ, vội vàng chi anh/ Em nghe họ nói mong manh/ Hình như họ biết chúng mình… với nhau.
Vận luật đúng là thơ lục bát chuẩn, nhưng đây là lời tâm tình của một thôn nữ với người yêu mà cô nàng biết chắc đang sốt ruột. Còn đây là lời của người chị gái nói những lời như trăng trối với em mình khi đi theo một hôn nhân ngang trái: Em ơi em ở lại nhà/ Vườn dâu em đốn mẹ già em thương/ Mẹ già một nắng hai sương/ Chị đi một bước trăm đường xót xa (Lỡ bước sang ngang).
Bài Người hàng xóm tái hiện một cuộc đối thoại thầm với chính mình để xem mình có yêu nàng hay không. Lí trí thì bảo không yêu mà trái tim thì thú nhận: Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng. Cái lí sự trách cứ người yêu chỉ có điệu nói mới thể hiện được: Bảo rằng cách trở đò giang/ Không sang là chẳng đường sang đã đành/ Nhưng đây cách một đầu đình/ Có xa xôi mấy mà tình xa xôi (Tương tư).
Khi cô đơn người ta càng có nhu cầu đối thoại, dù là với chính mình như là kẻ khác. Câu thơ Nguyễn Bính đầy lời than, hỏi, kể lể, lí sự của một cá nhân. Cái duyên, cái đặc sắc của thơ Nguyễn Bính bắt nguồn từ lối thơ giọng điệu, thơ của tiếng lòng, tiếng người - những lời tâm sự, lời thủ thỉ, tiếng nói thầm, lời phân trần, giãi bày, lí sự. Đó là nguyên tắc thi pháp số một của ông.
Nguyễn Bính thích làm thơ không phải bằng hình ảnh, ngôn từ đối chọi, kì khu, tương phản, màu sắc; không bằng lời đúc, lời đắt như thơ cổ, mà bằng giọng nói. Bởi vì ông yêu tiếng nói, thích nghe giọng nói. Giọng nói là tiếng của tâm hồn, vừa có vẻ đẹp tâm hồn, vừa có vẻ đẹp ngôn ngữ, âm điệu, ngữ điệu, tình cảm, cho nên có khi dài dòng, lắm lời một tí cũng không quan ngại. Ta hiểu vì sao thơ Nguyễn Bính có nhiều bài lắm lời. Thơ lục bát của Thế Lữ, Huy Cận, Hàn Mặc Tử tuy của mỗi người một khác nhưng có cái chung như thế.
Thơ lục bát cách mạng của Tố Hữu như Bầm ơi, Bà bủ, Việt Bắc, Bài ca quê hương, Kính gửi cụ Nguyễn Du, Nước non ngàn dặm... đã kế thừa thi pháp của Thơ mới, đồng thời kế thừa cả thi pháp ca dao truyền thống và mang nội dung tuyên truyền cách mạng. Lục bát của một số nhà thơ làm trong thời kì cải cách ruộng đất hầu như là nhại lục bát ca dao, ít sáng tạo mới. Đã xuất hiện nhiều trường ca, nhưng chưa thấy trường ca lục bát, mà chỉ có trường ca phối xen nhiều thể thơ.
Lục bát của thế hệ trẻ bắt đầu từ thời chống Mĩ như Nguyễn Duy đã có nhiều sáng tạo trong việc tách dòng lục bát thành những dòng thơ bậc thang kiểu Maiakovski nhằm nhấn mạnh nhịp điệu. Ví dụ như bài Tre Việt Nam (1972) của Nguyễn Duy, khổ đầu:
Tre xanh,
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa... đã có bờ
tre xanh.
và khổ kết:
Mai sau,
Mai sau,
Mai sau...
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh.
Nếu Nguyễn Duy và một số nhà thơ khác chỉ xuống dòng một vài câu lục bát thì gần đây đã xuất hiện những bài thơ lục bát ngắt dòng liên tục. Chẳng hạn Giấc mơ sông Thương1 của Nguyễn Phúc Lộc Thành:
Câu ca
thiêm thiếp bên thềm
Bình minh thở
dưới môi em đậm đà
Hoa ơi
đừng trắng điêu ngoa
Để trinh
một giấc
thật thà
có nhau…
Dòng thơ này hiện rất đông đảo. Ta có thể kể Thạch Quỳ, Nguyễn Trọng Tạo, Đồng Đức Bốn, Đỗ Trọng Khơi, Trần Hưng, Nguyễn Phúc Lộc Thành và nhiều nhà thơ khác. Thực chất của kiểu sắp xếp này là luật lục bát vẫn giữ nguyên, chỉ có nhịp và ngắt dòng thay đổi đơn vị nhịp điệu. Các hiện tượng này đã được Phan Diễm Phương quan sát từ năm 1994 với rất nhiều ví dụ thú vị từ thơ của Trần Huyền Trân, Nguyễn Trọng Tạo, Hồ Tăng Ấn, Ngô Minh, Nguyễn Trọng Oánh…, mà sự vận dụng của các nhà thơ đương đại chỉ là sự nối dài mạnh mẽ hơn, triệt để hơn của những tìm tòi lẻ tẻ kia.
Đọc Giấc mơ sông Thương của Nguyễn Phúc Lộc Thành rất thú vị. Nó chứng tỏ, lục bát có một sự mềm mại nội tại không ngờ để có thể uốn dẻo thành rất nhiều hình thế, có thể ngắt dòng tự nhiên theo các cung bậc cảm xúc. Một khi đã nhiều lần xuống dòng, thì không còn cặp dòng trên sáu dưới tám quen thuộc nữa, mà đã lạ hóa, hình thành những biến thể mới, mô hình lục bát chỉ còn ẩn chìm giữa các dòng thơ. Tuy vậy nó vẫn dễ dàng được hoàn nguyên. Những cố gắng bền bỉ này liệu đã có thể tạo nên một giai đoạn mới của thơ trữ tình lục bát Việt Nam chưa, có lẽ cần tiếp tục theo dõi và nghiên cứu.
T.Đ.S
--------
1. Thơ Việt truyền thống (ngoại trừ tục ngữ, thành ngữ, ca dao, dân ca, vì trong đó mới có câu tục ngữ, câu ca dao, chứ chưa có câu thơ) trước hết là thơ luật Đường, thuộc lối thơ tu từ, sử dụng tất cả các yếu tố câu, vần, nhịp, điệu và các phép đối, luật, điển cố có sẵn để tạo ra câu thơ ý tượng, nghĩa là câu thơ cô đúc, có tính hoạ, tính nhạc, réo rắt, nhưng không còn dấu hiệu của lời nói. Câu thơ không có chủ thể phát ngôn, không có giọng nói ở trong, nó nguyên khối theo cấu trúc cố định của một kiểu sắp xếp, tổ hợp ngôn từ có sẵn. Câu thơ điệu nói có chủ thể phát ngôn, có ngữ điệu nói, câu thơ có thể vắt dòng, mở rộng, không trùng với dòng thơ (xem thêm Trần Đình Sử, Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987, tr. 237-242)
(vannghequandoi.com.vn)