Giá trị nhân văn trong văn chương Huỳnh Thúc Kháng
Huỳnh Thúc Kháng và báo Tiếng Dân. (Ảnh tư liệu)
Huỳnh Thúc Kháng (tự Giới Sanh, hiệu Mính Viên) là một chí sĩ tiêu biểu cho khát khao độc lập, dân chủ, tiến bộ của dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Đề cao và xác lập quan niệm về dân
Điểm nhất quán trong tư tưởng cũng như trong văn chương của Huỳnh Thúc Kháng là sự đề cao và xác lập quan niệm về người dân. Điều này được bắt nguồn cái tâm chân chính của một bậc trí thức uyên thâm và sự tự thay đổi bản thân của ông qua việc từ bỏ thế giới quan Nho giáo, từ bỏ sự đỗ đạt của chốn quan trường phong kiến để thâm nhập vào thực tiễn đầy chông gai của đời sống. Trong quan niệm của chí sĩ xứ Quảng, dân là trung tâm: “Sinh trong một nước phải lo phần/ Dưới đất, trên trời, giữa có dân” (Tiếng dân tự đề, 1927).
Theo Huỳnh Thúc Kháng, dân là một chữ quan trọng: “Ngày nay là ngày dân quyền phát đạt, khắp trong thế giới chữ dân đã hiện thành một chữ rất to lớn” và “Cái nghĩa chân chánh chữ dân từ đây về sau, như mặt trời mới mọc, rồi ra không mây mù gì che đậy cả” (Nghĩa chữ dân). Vì dân quan trọng nên dân là trách nhiệm của kẻ sĩ: “Gánh giang sơn cất nổi để chờ ai/ Tang bồng chất nặng hai vai” (Cảm tác, 1933).
Trong thời gian đảm nhiệm cương vị Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ, và nhất là khi thành lập, dẫn dắt báo Tiếng Dân (1927-1943), Huỳnh Thúc Kháng càng thể hiện mạnh mẽ việc đề cao và xác lập quan niệm về dân. Tờ báo Tiếng Dân cho thấy đây không chỉ là “Một nền ngôn luận vốn con con” mà ý nghĩa hơn, như chính tên gọi, là tiếng nói chính đáng của người dân.
Huỳnh Thúc Kháng đề cao quyền tự chủ, tự quyết của dân tộc. Chứng kiến cuộc sống lầm than của nhân dân trong cảnh đất nước bị ngoại bang đô hộ, từng bị tù đày và sau đó ông cộng tác với chính quyền cách mạng..., hơn ai hết, ông hiểu rằng chỉ khi người dân được tự do thì những điều khác mới có ý nghĩa.
Vậy nên, trong bức điện Cùng các anh em đảng phái, tôn giáo (viết ngày 19-4-1947), ông quả quyết: “Chủ nghĩa gì cũng chẳng nên trò, nếu còn là dân nô lệ”(1). Mong mỏi lớn nhất của đời ông là đất nước phải được độc lập, được tự quyết định vận mệnh: “Anh em là những vị anh hùng vô danh của đất nước. Mong anh em hăng hái hơn nữa, nhất định không để cho dân tộc ta bị tròng vào ách thực dân một lần nữa...” (Gởi anh em binh sĩ, viết ngày 19-4-1947)(2).
Văn chương là một vũ khí để tranh đấu
Gắn với con đường cách mạng đầy gian khổ, Huỳnh Thúc Kháng xem văn chương như một phương tiện đắc lực để tranh đấu. Ông đề cao khí tiết của những chí sĩ kiên trung luôn xả thân vì nước; hô hào quần chúng đứng lên đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng đất nước; kêu gọi bãi bỏ lối học hủ văn; vạch trần thực trạng bóc lột của xã hội thực dân lúc bấy giờ...
Trong số các tác phẩm ông để lại cho đời, có thể xem bài Lương ngọc danh sơn phú là tác phẩm tiêu biểu mang nội dung vừa bài xích nền cựu học truyền thống cùng chế độ khoa cử lỗi thời, vừa đề xướng tân học, thiết tha kêu gọi nhân dân ta kế thừa dòng giống Lạc Hồng, biết nhìn ra bốn biển để soi rọi lại mình...
Việc kêu gọi “quẳng bút lông” để tìm tòi một hướng đi mới nhằm cứu dân tộc khỏi ách lầm than nô lệ chính là tiếng nói thể hiện lòng yêu nước, lòng căm thù giặc sâu sắc: “Hỡi hỡi những đồng bào Nam Việt/ Cùng giống nòi phải biết thương nhau (...) Đừng cam chịu tiếng ươn hèn/ Hơi tàn còn thở chớ quên phục thù/ Tiếc chi cái sống thừa nhục nhã...” (Lương ngọc danh sơn phú).
Đặc biệt, trong thời gian Huỳnh Thúc Kháng phụ trách báo Tiếng Dân, ngòi bút của ông đã góp phần quan trọng trong đấu tranh chống văn hóa nô dịch. Theo nhà nghiên cứu Trần Mạnh Thường: “Qua những áng thơ văn hoặc đã xuất bản hoặc đã in trên báo Tiếng Dân cùng những hoạt động xã hội của mình cho thấy ông là một nhà văn, một chí sĩ yêu nước nhiệt thành, là người bạn của những tầng lớp dân nghèo, đặc biệt là những người nông dân chân lấm tay bùn, một nắng hai sương đang phải sống khắc khoải dưới hai tầng áp bức bóc lột của thực dân và phong kiến”(3). Nhìn chung, “Thơ phú và cả văn của Huỳnh Thúc Kháng thật là mạnh mẽ, cứng cỏi, như con người của ông”(4).
Lối thể hiện gần gũi, bình dân
Huỳnh Thúc Kháng xuất thân Hán học nhưng không phải lúc nào văn chương của ông cũng diễn ra cách hành văn “gò chữ uốn câu”, “tầm chương trích cú”... Trái lại, văn chương của ông luôn gần gũi, bình dân, trong sáng..., nhất là khi hướng tới quần chúng nhân dân. Chẳng hạn, nói về cảnh lao tù đày ải và chí khí của kẻ làm trai, ông viết: “Xiềng gông cà kệ biệt Đô-môn/ Khảng khái ngâm nga lưỡi vẫn còn/ Đất nước đắm chìm nòi giống mỏn/ Thân trai nào sợ cái Côn-lôn” (Thi tù tùng thoại, bản in năm 1939). Khi thuật lại chuyện thi cử trong thời kỳ thuộc địa, ông đã sử dụng lối thơ văn trào phúng: “Những tưởng trường thi, thi chữa nghĩa/ Hay đâu hàng cá lại hàng tôm (...) Trăm nghìn nay đỗ bấy nhiêu người/ Đậu hỏng tay quan đã định rồi/ Giám khảo xong rồi thêm nặng túi/ Tha hồ cờ bạc lại ăn chơi” (Chuyện đi thi, 1930)... Lối thể hiện bình dị của Huỳnh Thúc Kháng đã làm thơ ca ông mang đậm cái hồn dân tộc: “nói lên tiếng nói của dân tộc, nghĩ cái nghĩ của dân tộc, làm cái làm của dân tộc.”(5).
Chí sĩ, nhân sĩ Huỳnh Thúc Kháng - người con ưu tú của xứ Quảng - đã về với “thế giới người hiền” được 74 năm. Ông là tấm gương sáng, tiêu biểu của người trí thức, là hiện thân của sự vươn tìm cái mới, biết vượt lên trên mọi hạn chế của bản thân và xã hội để hướng tới một giá trị chung, cao cả: tự do, hạnh phúc của nhân dân và độc lập, tự chủ của quốc gia.
(1), (2) Nguyễn Q. Thắng (2001), Huỳnh Thúc Kháng - Con người và thơ văn, Nxb Văn học (tái bản), tr.350.
(3) Trần Mạnh Thường (2008), Huỳnh Thúc Kháng, Các tác giả văn chương Việt Nam, tập 1, Nxb Văn hóa Thông tin, tr.761.
(4) Đỗ Đức Hiểu (chủ biên, 2004), Huỳnh Thúc Kháng, Từ điển Văn học bộ mới , Nxb Thế giới, H, tr.674.
(5) Nguyễn Q. Thắng (2001), Huỳnh Thúc Kháng - Con người và thơ văn, Nxb Văn học (tái bản), tr.309.
(baodanang.vn)