Quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội trong đời sống của người dân Đà Nẵng
Lễ cúng đình Thần Nông tại Lệ hội Mục đồng làng Phong Lệ.
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa có vai trò vô cùng quan trọng đối với các cộng đồng dân cư trong quá trình hình thành và phát triển, cũng là một phần không thể tách rời của đời sống làng xã. Ở Đà Nẵng, lễ hội hầu như hiện diện từ miền núi, trung du đến đồng bằng ven biển của cư dân nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp,... Quá trình hình thành lễ hội gắn liền với quá trình hình thành cộng đồng cư dân nơi đây.
Dưới tác động của nhiều yếu tố, đời sống làng xã nông thôn có nhiều biến đổi về kinh tế - xã hội, cùng với quá trình đô thị hóa đã khiến cho nhiều lễ hội truyền thống dần mai một. Do đó, việc quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội trong đời sống của người dân Đà Nẵng là hết sức cần thiết.
Một số tài liệu cho rằng, từ lễ hội (festival) xuất hiện ở các nước phương Tây vào khoảng thế kỷ XIV.[1] Từ nguyên của thuật ngữ này bắt nguồn từ một từ Latin là festum, ban đầu nó có nghĩa là “sự vui chơi, vui mừng, hân hoan của công chúng”. Tùy thuộc vào các ngôn ngữ khác nhau mà thuật ngữ này biểu thị các yếu tố cấu trúc riêng biệt hoặc các dạng thức khác nhau của nó. Thời Trung cổ, người ta dùng chữ feast là chỉ một bữa ăn thịnh soạn, vui vẻ; trong tiếng Tây Ban Nha, người ta dùng từ fiesta để chỉ một trận đấu trước công chúng nhằm phô bày năng lực và lòng dũng cảm, từ fête trong tiếng Pháp cũng được dùng với nghĩa là một lễ kỷ niệm hay đơn thuần là một bữa tiệc tương đối trịnh trọng.[2]
Ngày nay trên thế giới, thuật ngữ lễ hội (festival) được hiểu là lễ kỷ niệm của một hoạt động có tính thiêng; liên hoan cho một vụ mùa đặc biệt; lễ kỷ niệm một người hoặc một nhóm người mà ở đó bao gồm hàng loạt các hoạt động diễn xướng nghệ thuật…
Ở Việt Nam, khái niệm lễ hội đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu và lý giải khác nhau. Lương Hoàng cho rằng, “lễ hội là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật truyền thống của cộng đồng”.[3] Còn Trương Thìn trong Hội hè Việt Nam thì định nghĩa: “Hội và lễ hội là sinh hoạt văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam chúng ta. Hội và lễ hội có sức hấp dẫn, lôi cuốn các tầng lớp trong xã hội để trở thành một nhu cầu, một khát vọng của nhân dân trong nhiều thế kỷ”.[4]
Nhìn chung, qua các định nghĩa về lễ hội thì dường như các nhà nghiên cứu đều có chỗ giống nhau, đó là đều thống nhất với nhau hai thành tố cấu trúc tạo nên lễ hội (phần lễ tức là nghi lễ, là mặt thứ nhất: tinh thần, tôn giáo, tín ngưỡng, linh thiêng; phần hội tức là hội hè, là mặt thứ hai: vật chất, văn hóa nghệ thuật, đời thường). Vai trò của lễ hội được thể hiện trên rất nhiều mặt như: đời sống tâm linh, tín ngưỡng; đời sống văn hóa, tinh thần và là yếu tố liên kết cộng đồng…
1. Thực trạng hoạt động lễ hội trong đời sống của người dân Đà Nẵng
1.1. Đôi nét về các loại hình lễ hội ở Đà Nẵng
Đà Nẵng là một thành phố trực thuộc Trung ương, năm 2024, dân số ước tính khoảng 1.271.000 người, thuộc 32 thành phần dân tộc, trong đó có 31 thành phần dân tộc thiểu số, với khoảng 5.880 người (chiếm tỷ lệ gần 0,46% dân số toàn thành phố). Trong số 31 thành phần dân tộc thiểu số, dân tộc Hoa chiếm tỷ lệ cao nhất với khoảng 46,8% (2.753 người); tiếp đến là dân tộc Cơ Tu chiếm 27% (1.581 người); 29 dân tộc thiểu số khác chiếm tỷ lệ 26,2% (1.546 người)… Với bản sắc văn hóa riêng, các tộc người đã góp phần tạo nên tính đa dạng phong phú các sắc màu văn hóa trên địa bàn thành phố.[5]
Thời gian qua, với những vận động nội lực đã khiến Đà Nẵng ngày càng mở rộng tầm vóc của mình. Bắt đầu từ kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là cơ sở về hạ tầng giao thông, tiến hành chỉnh trang đô thị, xây dựng một môi trường mới hiểu theo nghĩa rộng, tạo điều kiện cho công cuộc phát triển mới. Khai thác tốt những lợi thế sẵn có, trong những năm qua Đà Nẵng đã có những biến đổi rõ rệt về về kinh tế lẫn văn hóa… Nhiều di tích lịch sử - văn hóa được trùng tu, tôn tạo, nhiều lễ hội truyền thống được phục hồi, nhiều sự kiện lễ hội mới được tổ chức... phần nào đã tạo cho thành phố sự năng động, sáng tạo, đa sắc màu, thu hút du khách trong và ngoài nước tìm đến với thành phố bên bờ sông Hàn thơ mộng.
Theo thống kê bước đầu của chúng tôi, hiện nay trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có hơn 30 lễ hội chính, bao gồm các loại hình: lễ hội dân gian, lễ hội tôn giáo - tín ngưỡng, lễ hội lịch sử cách mạng và lễ hội đương đại (còn gọi là lễ hội mới). Tuy nhiên, đây chỉ là con số được thống kê chỉ ở mức tương đối, còn lại chưa kể các lễ hội cổ truyền của dân tộc như: Tết Nguyên đán, Tết Nguyên tiêu, Tết Đoan ngọ, Tết Thanh minh, Tết Hàn thực, Tết Trùng thập, Tết Trùng cửu, vía Quan Thánh Đế Quân, vía Thiên Hậu Thánh Mẫu là những vị thần trong tín ngưỡng dân gian của cộng đồng người Hoa; và nhiều lễ hội của các tộc người khác cùng sinh tụ trên địa bàn thành phố… Đặc biệt, từ năm 2007, Quốc hội và Nhà nước Việt Nam công nhận ngày mồng 10/3 âm lịch hàng năm là ngày giỗ các vua Hùng, vì vậy đã trở thành ngày đại lễ của quốc gia. Ngoài ra, tại các đình làng, lăng, miếu ở các xóm thôn, người dân tiến hành tế Xuân Thu nhị kỳ, cầu mong quốc thái dân an, phong điều vũ thuận.
Lễ hội dân gian
Lễ hội dân gian là “một hoạt động văn hóa dân gian tổng thể gồm các nghi thức cúng tế và các sinh hoạt vui chơi thể hiện niềm tin của một cộng đồng cư dân về sự hiện hữu của một phép thiêng có từ trong quá khứ, gắn với cộng đồng dân cư đó trong lịch sử cộng cư của họ và vẫn hiện hữu cùng cuộc sống của cộng đồng trong các thời khắc đương đại".[6]
Lễ hội dân gian bao gồm các nghi lễ truyền thống mang đậm dấu ấn của cư dân nông nghiệp, ngư nghiệp như: lễ Cầu an, lễ Hạ điền, lễ hội Mục đồng, lễ hội Cầu ngư,... được tổ chức gắn liền với các thiết chế văn hóa truyền thống là đình làng, lăng, miếu. Các lễ hội này diễn ra ở quy mô chủ yếu là cấp xã, phường, quận, huyện, thời gian từ 01 đến 03 ngày. Phần lễ được tiến hành theo nghi thức truyền thống, có cải tiến theo hướng đơn giản nhưng vẫn giàu tính nhân văn. Ngoài việc cúng Thành hoàng, các bậc Tiền hiền có công khai khẩn, khai canh, các vị thần trong tín ngưỡng dân gian,... còn là dịp cầu mùa, cúng tổ nghề. Sau phần nghi lễ ở các đình làng, lăng miếu, thường là phần hội với những loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian như: hát bội, hô bài chòi, hát hò khoan đối đáp; các trò diễn dân gian như: đua ghe, đua thuyền, thi nấu cơm, làm bánh; triển lãm các thành tựu về kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.
Hầu hết các lễ hội dân gian có tính chất định kỳ và được nhân dân cùng chính quyền địa phương phối hợp tổ chức với mong muốn đem lại không khí vui vẻ, làm phong phú thêm đời sống tinh thần cho nhân dân, góp phần quan trọng trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời tạo dựng một hình ảnh thành phố Đà Nẵng trẻ trung, năng động nhưng không lãng quên quá khứ.
Lễ hội tôn giáo - tín ngưỡng
Ngoài lễ hội dân gian thì những lễ hội mang tính tôn giáo - tín ngưỡng cũng giúp con người có khả năng trút bỏ được gánh nặng của thế giới trần tục, tăng thêm khả năng “hiệp thông” với thế giới thần linh, với các đấng, bậc thiêng liêng. Giúp họ tìm thấy những niềm tin siêu nhiên trong các lễ hội và kéo họ gần lại với những nhân vật xa xưa, những thế giới huyền thoại. Chính vì thế, ngay trong các lễ hội ở các chùa chiền, thành thất, nhà thờ… đều thấm đẫm màu sắc thiêng liêng, huyền bí.
Bên cạnh lễ hội được tổ chức ở các cơ sở tôn giáo như lễ Phật đản (rằm tháng 4 âm lịch), lễ Vu lan (rằm tháng 7 âm lịch), lễ hội Quán Thế Âm Ngũ Hành Sơn của Phật giáo; lễ Giáng sinh (24/12), lễ Phục sinh (tháng 3 hoặc tháng 4 hằng năm) của những người theo đạo Công giáo; lễ Vía Đức Chí Tôn vào mồng 9 tháng giêng âm lịch của những người theo đạo Cao Đài;… thì tại các cơ sở tín ngưỡng dân gian như đình làng, lăng, miếu,… luôn phảng phất những hành vi tôn giáo, những cử chỉ lễ lạy nghiêm trang, thành kính, với những khám phá tâm linh trải nghiệm “siêu hình” gần gũi, quyến rũ. Thậm chí sau khi lễ tế thần hoàn tất thì các trò chơi dân gian, các cuộc đua vui cũng pha chút sắc thái tôn giáo.
Lễ hội lịch sử cách mạng
Được tổ chức vào dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc với ý nghĩa giáo dục phát huy truyền thống cách mạng, kỷ niệm ngày chiến thắng như Lễ kỷ niệm ngày Giải phóng thành phố Đà Nẵng 29.3, ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước 30.4, ngày Thương binh Liệt sĩ 27.7… Ngoài các hình thức tổ chức như mít-ting, viếng nghĩa trang liệt sĩ, thăm gia đình chính sách có công với cách mạng, các ngành đoàn thể còn tổ chức văn nghệ, cắm trại về nguồn, thi đấu thể dục, thể thao, đua thuyền, tổ chức hội chợ triển lãm thành tựu kinh tế khoa học, kỹ thuật… của thành phố trong những năm qua.
Đặc biệt tại Đà Nẵng, lễ cầu siêu và tế vong linh nghĩa sĩ tại Nghĩa trủng Quốc gia Phước Ninh thuộc phường Nam Dương (quận Hải Châu) vào hai ngày 26 và 27.7, lễ tế nghĩa sĩ ở khu di tích Nghĩa trủng Khuê Trung (quận Cẩm Lệ) được tổ chức vào dịp 16.3 âm lịch hàng năm là những lễ hội lịch sử điển hình. Khu di tích Nghĩa trủng Khuê Trung gồm quần thể phế tích tháp Hóa Quê, miếu Bà, giếng cổ Chăm, nhà thờ Chư phái tộc các vị Tiền hiền đã có công lập làng vào thế kỷ XV và trên 1.000 ngôi mộ của những nghĩa sĩ vì quốc vong thân trong buổi đầu chống thực dân Pháp - Tây Ban Nha xâm lược Đà Nẵng (1858 - 1860). Từ năm 2010, lễ tế nghĩa sĩ Khuê Trung đã được tổ chức kết hợp với lễ hội của làng Khuê Trung nhằm mục đích tri ân công đức các nghĩa sĩ đã anh dũng hy sinh, đồng thời đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tâm linh của nhân dân trên địa bàn quận Cẩm Lệ nói riêng, thành phố Đà Nẵng nói chung.
Lễ hội đương đại
Lễ hội đương đại (còn gọi là lễ hội mới), hầu như chỉ mới được tổ chức trong những năm gần đây nhằm giới thiệu bản sắc văn hóa truyền thống và các di tích, danh thắng cũng như quảng bá nhằm thúc đẩy hoạt động dịch vụ du lịch trên địa bàn thành phố. Dù dưới hình thức nào đi chăng nữa thì lễ hội đương đại cũng thường được tổ chức trên cơ sở kế thừa lễ hội dân gian, giữa lễ hội đương đại và lễ hội dân gian có sự phối hợp hài hòa với nhau đã tạo thêm màu sắc cho lễ hội, vừa gần gũi với công chúng, lại vừa mới mẻ, đông vui. Nổi bật nhất trong các lễ hội đương đại của thành phố Đà Nẵng trong những năm gần đây phải kể đến Cuộc thi trình diễn pháo hoa quốc tế Đà Nẵng, lễ hội Ánh sáng, lễ hội biển “Đà Nẵng - Điểm hẹn mùa hè” tổ chức thường niên, lễ hội Âm nhạc đường phố… được người dân địa phương cũng như khách du lịch trong và ngoài nước háo hức chờ đón, tham gia đông đảo.
Phần hội trong lễ hội đương đại được thực hiện rất công phu, hoành tráng, sức hấp dẫn cao, những tinh túy, đặc trưng trong văn hóa dân tộc được trình bày, giới thiệu thật trân trọng, nhất là đối với khách du lịch trong nước và quốc tế. Cái đẹp của lễ hội truyền thống song hành cùng cái mới lạ của lễ hội hiện đại. Đây là dịp để công chúng sáng tạo trong tinh thần cộng cảm, cùng chia sẻ về tài chính và trách nhiệm tổ chức, huy động được mọi điều kiện về vật chất cũng như tinh thần.
1.2. Thực trạng hoạt động lễ hội ở Đà Nẵng
Trong bối cảnh toàn cầu hóa với sự hội nhập nhanh chóng của nền kinh tế, văn hóa, xã hội của các quốc gia trên thế giới với nhau, việc phục hồi và phát triển lễ hội truyền thống cũng như hình thành các lễ hội mới có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của nhân dân. Một số lễ hội truyền thống như: lễ hội Mục đồng làng Phong Lệ, lễ tế Nghĩa sĩ và hội làng Khuê Trung, lễ cầu siêu và tế vong linh nghĩa sĩ tại Nghĩa trủng Quốc gia Phước Ninh, lễ hội đình làng Hải Châu, lễ hội đình làng Túy Loan, lễ vía Quan Thế Âm và nhiều lễ hội khác sau một thời gian dài vắng bóng nay cũng được phục hồi, đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân. Ngoài ra, còn có hàng trăm lễ hội lớn nhỏ tại các lăng, miếu, đình, chùa ở các làng quê do một thời gian dài do chiến tranh nên nhiều ngôi làng, di tích bị bom đạn của cày nát, nhân dân phiêu tán khắp nơi nên lễ hội không được tổ chức thường xuyên... thì nay cũng sống dậy, tạo nên sự đa dạng, phong phú trong đời sống văn hóa ở Đà Nẵng.
Rõ ràng sự phục hồi và phát triển của lễ hội truyền thống trên địa bàn thành phố phần nào đã đáp ứng được nguyện vọng của người dân. Nhờ đó mà các loại hình nghệ thuật như hát bội, ca kịch, hò khoan đối đáp, trò chơi dân gian,... được phục hồi và gìn giữ; người dân vì thế mới có dịp được thưởng thức các loại hình nghệ thuật này trong một môi trường diễn xướng phù hợp. Nhiều người cho rằng, nếu không có các lễ hội truyền thống thì nguy cơ mai một các loại hình nghệ thuật truyền thống và trò chơi dân gian còn cao hơn so với những gì chúng ta đang chứng kiến. Nhà nghiên cứu văn hóa Trương Thìn tại Hội nghị - hội thảo về lễ hội đã cho rằng, hội hè được mở lại, cùng với việc xếp hạng các di tích lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, tạo cho quần chúng nhân dân có ý thức giữ gìn, bảo vệ, trân trọng những cơ sở vật chất mà tiền nhân để lại; các cấp, các ngành, các đoàn thể ở địa phương chăm lo, tu bổ tôn tạo các di tích lịch sử, các công trình văn hóa của dân tộc.
Thời gian qua, người dân rất quan tâm đến sự phục hồi và phát triển của lễ hội, cũng như chủ động tham gia tổ chức và gìn giữ di sản của chính cộng đồng mình. Thêm vào đó, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố cũng luôn chỉ đạo, định hướng và theo dõi sát sao các hoạt động trong lĩnh vực do mình quản lý, đồng thời các ban, ngành khác trên địa bàn thành phố cũng đặc biệt quan tâm đến việc quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội.
Những năm gần đây, thành phố đã thực hiện xã hội hóa lễ hội nhằm giảm thiểu ngân sách và tiến tới không sử dụng ngân sách trong tổ chức lễ hội. Vì vậy, việc tham gia của người dân vào tổ chức các hoạt động lễ hội cũng như thụ hưởng các giá trị văn hóa của lễ hội ngày càng rõ nét hơn, mang lại ý nghĩa thiết thực, đúng tinh thần của lễ hội là để phục vụ cho chính lợi ích của người dân. Xu hướng này được thể hiện khá rõ trong những lễ hội lớn diễn ra trên địa bàn thành phố, điển hình như lễ hội Quán Thế Âm, theo đó, kinh phí chi cho tổ chức lễ hội gần như toàn bộ được lấy từ nguồn công đức quanh năm của Phật tử và du khách thập phương, một phần của thành phố. Không chỉ phần lễ, phần hội với các trò chơi dân gian, thi đấu thể thao hay biểu diễn văn nghệ cũng được xã hội hóa theo hướng thu hút sự tham gia của các khu phố, xóm làng trên địa bàn như thả hoa đăng, kéo co, thư pháp, đua thuyền,... Và lễ hội trình diễn pháo hoa quốc tế là một điển hình cho lễ hội mới có nguồn kinh phí xã hội hóa (từ sự đóng góp, hỗ trợ của các tập đoàn, doanh nghiệp trên địa bàn thành phố).
Có thể nói, trong những năm qua, việc bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội trên địa bàn thành phố đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp, nhưng cũng nảy sinh ra một số yếu tố tiêu cực, gây ra những khó khăn, hạn chế đối với những người làm công tác quản lý lễ hội như:
Nhiều lễ hội sau một thời gian dài không tổ chức nên những bài, bản, văn cúng… gắn liền với lịch sử của di tích đó đã bị lãng quên, thất lạc hoặc có nhớ nhưng nhớ không rõ ràng, đầy đủ; thêm vào đó, những người lớn tuổi, am hiểu về việc tổ chức lễ hội, cũng như đã từng tham gia vào lễ hội nay đã qua đời, không kịp trao truyền những kiến thức cũng như kinh nghiệm về tổ chức lễ hội cho thế hệ trẻ nên trong việc tổ chức lễ hội, giới trẻ ngày nay không nắm bắt được nội dung, thông tin về lễ hội của đời trước, vì thế đã “vay mượn” kịch bản lễ hội ở những nơi khác, điều đó đã làm sai lệch về cả nội dung lẫn hình thức tổ chức lễ hội so với các lễ hội trước kia.
Thời gian gần đây, việc thương mại hóa lễ hội đã và đang diễn ra vì một số người đã lợi dụng việc tổ chức lễ hội để kiếm lợi nhuận bằng cách kinh doanh các loại hình dịch vụ ăn theo lễ hội như: ăn, nghỉ, bán hàng thu tiền với giá quá đắt...
Việc đầu tư tổ chức một số lễ hội còn nhiều hạn chế, cơ sở vật chất và các điều kiện tổ chức lễ hội ở các đình làng còn nghèo nàn, vì vậy một số hoạt động lễ hội chưa thực sự phong phú, thu hút người tham dự. Công tác tuyên truyền tại nhiều lễ hội chưa tốt, chưa có hình thức giới thiệu để giúp người tham dự hiểu biết thêm về giá trị lịch sử - văn hóa của các di tích hoặc các xuất xứ của lễ hội nên phần nào đã làm giảm đi giá trị giáo dục truyền thống.
Việc tổ chức các dịch vụ bán hàng lưu niệm phục vụ cho lễ hội, điển hình là lễ hội Quán Thế Âm trong thời gian qua, dù chính quyền địa phương có nhiều nỗ lực và cố gắng để không xảy ra những hình ảnh không được tốt trong mắt du khách, nhưng vẫn còn diễn ra tình trạng lấn chiếm khuôn viên nơi thờ tự, gây ùn tắc giao thông và làm giảm đi giá trị của lễ hội gắn với di tích là danh lam thắng cảnh nổi tiếng của thành phố.
Lễ hội truyền thống giờ đây không chỉ bó gọn trong phạm vi một làng, một địa bàn cư trú nhỏ hẹp. Với nhiều lễ hội, phần lớn người tham dự là những người từ những nơi khác đến. Do đó, tính vô danh của người đi lễ, cộng với ý nghĩa tâm linh ít nhiều phai nhạt trong tâm niệm của người đi hội, thay vào đó các lễ hội truyền thống được xem như một trò vui hay một đám đông người đã khiến cho lễ hội nhiều khi bị trần tục hóa.
Ngoài ra, không gian di tích cũng ngày càng bị thu hẹp do tốc độ đô thị hóa đang lan dần về nông thôn. Điều này chúng ta thấy khá rõ qua hình ảnh của những làng quê ở Liên Chiểu, Thanh Khê, Cẩm Lệ, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn… đang từ từ biến mất, thay vào đó là những ngôi nhà hình ống (nhà phố) hiện đại, những đình làng chỉ còn nằm trong khuôn viên nhỏ bé được xây dựng liền kề nhau tạo thành “khu tâm linh”… Vì vậy, văn hóa làng với không khí hội hè liệu có còn? Giới trẻ có còn cảm thấy trang nghiêm khi tham gia lễ hội? Có lẽ còn nhiều vấn đề cần đặt ra trong việc quản lý, bảo tồn di sản văn hóa, nhất là lễ hội truyền thống của dân tộc.
Thời gian qua, trong khi nhiều tỉnh, thành trong cả nước rất quan tâm đến lĩnh vực văn hóa, đã đầu tư, khuyến khích nghiên cứu bảo tồn, phát triển văn hóa thì Đà Nẵng vẫn còn hạn chế. Hiện đã có nhiều tỉnh, thành ban hành Quy chế về tổ chức và quản lý lễ hội của địa phương mình thì Đà Nẵng vẫn chưa có (?), việc tổ chức lễ hội cũng được lồng ghép vào những nội dung khác, gây khó khăn cho những người làm công tác quản lý văn hóa ở cơ sở.
2. Một số giải pháp quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội
Quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ tại các quận, huyện trên địa bàn thành phố đã làm cho các vùng làng quê tiêu biểu như Hòa Quý, Hòa Hải của quận Ngũ Hành Sơn; Nại Hiên, Thọ Quang của quận Sơn Trà; Hòa Xuân, Hòa Phát của Cẩm Lệ; làng Nam Ô của quận Liên Chiểu,… đang biến dần từ làng sang phố nên phần nào đã ảnh hưởng đến đời sống tín ngưỡng cư dân. Chính quá trình đô thị hóa đó đã khiến con người bị cuốn vào cơn lốc của kinh tế thị trường, của tiền tệ, nhiều giá trị truyền thống bị mất đi, không ít người hoang mang, hụt hẫng, có khi cả bi quan. Nhưng không hẳn vì thế mà lễ hội cổ truyền biến mất, nó vẫn trường tồn, nó không mất đi ngay cả với những người sống ở thành thị (như lễ hội đình Hải Châu), bởi tâm lý hoài cổ vẫn ăn sâu trong lòng của họ, nhất là những người lớn tuổi. Bên cạnh đó, họ cần chỗ bấu víu tâm linh, tinh thần cho mình, vì vậy, lễ hội có đất để tồn tại. Thực tế nhiều năm trở lại đây, lễ hội cổ truyền được khôi phục, bảo lưu và tồn tại mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội trên địa bàn thành phố, trước hết chúng ta phải xác định được nhu cầu về tâm linh, tín ngưỡng của đại bộ phận nhân dân trong lễ hội. Chúng ta phải nhận thức và thấy rằng, lễ hội có vai trò, ý nghĩa tích cực trong đời sống của nhân dân, đó là tính liên kết cộng đồng và ý nghĩa giáo dục sâu sắc, người dân là chủ thể trong việc tổ chức lễ hội. Đó là những đặc điểm làm nên bản sắc của lễ hội.
Để quản lý, bảo tồn và phát huy các giá trị của lễ hội, chúng ta cần:
2.1. Về công tác quản lý lễ hội
Muốn phục vụ công tác quản lý thuận lợi cần chú trọng việc số hóa dữ liệu lễ hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nhằm rà soát, đánh giá thực trạng lễ hội, phục vụ công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội ở Đà Nẵng. Qua đó, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội, góp phần chuyển đổi phương thức quản lý dữ liệu lưu trữ truyền thống sang quản lý, lưu trữ điện tử, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về hoạt động lễ hội truyền thống.
Các cơ quan quản lý cần sớm ban hành Quy chế về tổ chức và quản lý lễ hội theo hướng phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Làm rõ việc phân cấp và quy định trách nhiệm của các cấp trong việc tổ chức và quản lý lễ hội. Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ, thường xuyên và đồng bộ giữa các cấp, các ngành trong quản lý lễ hội. Cơ chế và phương thức quản lý phải phù hợp với quy mô, tính chất, đặc điểm lễ hội ở từng địa phương trên địa bàn thành phố.
Việc xây dựng bộ máy quản lý và nâng cao năng lực đội ngũ công chức quản lý lễ hội trên địa bàn thành phố theo hướng chuyên nghiệp là vấn đề then chốt. Để làm được điều này thì thành phố cần có chính sách ưu đãi như đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn ngày hay dài ngày một cách hiệu quả; khuyến khích các cán bộ ngành văn hóa, các trưởng thôn, làng và những người làm quản lý lễ hội tham gia học tập, nâng cao hiểu biết và nghiệp vụ chuyên môn; trả lương cao cho những người phục vụ trực tiếp tại lễ hội bên cạnh những cán bộ văn hóa được hưởng lương nhà nước; có các hình thức khen thưởng kịp thời cho những người làm tốt công tác văn hóa để họ yêu nghề, yên tâm công tác lâu dài ở địa phương. Đặc biệt tổ chức các cuộc hội thảo thường niên, hội thảo khoa học liên quan đến lễ hội và quản lý lễ hội để tạo diễn đàn để họ được tham gia và học hỏi kinh nghiệm.
Đặc biệt cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, rà soát các thủ tục, hồ sơ xin cấp giấy phép tổ chức lễ hội. Chấn chỉnh các hành vi tiêu cực, phi văn hóa, hoạt động mê tín dị đoan, tình trạng lộn xộn tại các khu dịch vụ trên địa bàn tổ chức lễ hội. Thường xuyên nhắc nhở, phát hiện và có biện pháp xử lý kịp thời, nghiêm minh và triệt để các sai phạm và hành vi tiêu cực. Chú trọng công tác bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trước, trong và sau lễ hội, các khâu, vấn đề phát sinh, có phương án xử lý kịp thời.
2.2. Về công tác bảo tồn lễ hội
Trước hết cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về giá trị văn hóa của lễ hội, về ý nghĩa, mục đích của hoạt động lễ hội nhằm phát huy trách nhiệm của toàn xã hội đối với việc đưa các hoạt động lễ hội vào nề nếp, giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phát huy sự độc đáo của bản sắc địa phương qua mỗi lễ hội. Đồng thời cần đổi mới công tác tuyên truyền phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức, đặc biệt là phương thức giới thiệu, quảng bá lễ hội trên hệ thống phát thanh, truyền hình, internet,... để người dân nâng cao nhận thức về giá trị lịch sử, văn hóa của lễ hội trong đời sống tinh thần để từ đó hình thành ý thức đề cao việc thực hiện pháp luật và tự giác thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội. Nâng cao lòng tự hào về truyền thống văn hóa đặc sắc của quê hương, làm nền tảng cho việc giữ gìn các giá trị ấy. Trong dịp diễn ra lễ hội, nên chăng các trường học ở địa phương linh động cho học sinh nghỉ được tham gia vào dự lễ hội, đây là cách giáo dục trực quan rất hiệu quả cho thế hệ trẻ?
Việc nâng cao trình độ tri thức của cán bộ chuyên trách về văn hóa dân gian nói chung, văn hóa Đà Nẵng nói riêng, đường lối chính sách của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng cho việc thực hiện nhiệm vụ văn hóa ở địa phương rất quan trọng. Cần tăng cường công tác nghiên cứu để bảo đảm tính khoa học cho việc bảo tồn phát huy các giá trị lễ hội. Theo đó việc phục hồi vốn cổ phải đảm bảo tính hợp lý, tiến bộ. Xử lý hài hòa giữa yêu cầu bảo lưu các yếu tố văn hóa gốc, yếu tố truyền thống dân tộc với các thành tố văn hóa hiện đại mới nảy sinh. Ứng xử văn hóa với lễ hội ở Đà Nẵng là việc làm rất khó, nên cần có sự thận trọng và tinh tế.
Cần có chính sách văn hóa, xây dựng các thiết chế văn hóa cho việc tạo các không gian công cộng, tạo điều kiện trao truyền, hướng dẫn của giới chuyên trách và quỹ thời gian rỗi (để tham gia) của các tầng lớp công chúng; hỗ trợ, tư vấn, định hướng đứng đắn, giải quyết tốt các mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển, các nhu cầu truyền thống và đương đại của các hoạt động lễ hội cổ truyền, các lễ hội du lịch đương đại, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa các trò chơi, thú chơi, tạo điều kiện để mọi thành viên trong cộng đồng có thể bộc lộ tài năng.
Nhà nước và nhân dân cùng quan tâm tu bổ, tôn tạo các di tích đình làng, lăng miếu, quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng, giữ gìn vệ sinh môi trường để tạo không gian thuận lợi cho hoạt động lễ hội. Đối với các lễ hội lớn, Nhà nước nên bố trí một khoản kinh phí nhất định để tạo điều kiện cho địa phương chủ động trong việc tổ chức lễ hội. Đặc biệt tổ chức các đợt nghiên cứu, đánh giá, kiểm kê di sản lễ hội ở Đà Nẵng, bao gồm những lễ hội đang được duy trì, những lễ hội có nguy cơ mai một, biến dạng, và những lễ hội đã biến mất.
Ngoài ra, có thể phát động cuộc thi sáng tác kịch bản thông tin lưu động về thực hiện nếp sống văn minh trong việc tổ chức lễ hội, khen ngợi các tấm gương điển hình, phê phán những thói hư tật xấu… nhằm góp phần đưa hoạt động lễ hội theo đúng hướng như Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, các chỉ thị, nghị quyết, thông tư,… của Đảng và nhà nước nhằm gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung, thành phố Đà Nẵng nói riêng.
Cần có chính sách riêng trong việc phục hồi những trò chơi dân gian và diễn xướng dân gian truyền thống tại các lễ hội. Cụ thể: 1/ Đối với các trò chơi dân gian, cần phải tìm hiểu cách thức và trình tự diễn ra các trò chơi để xem xét đưa vào các lễ hội dân gian phù hợp; 2/ Đối với các hình thức diễn xướng dân gian truyền thống, cần tập hợp các nghệ nhân, nghệ sĩ, các nhà nghiên cứu văn hóa nghệ thuật dân gian để nghiên cứu, tìm hiểu nhằm bảo lưu các hình thức diễn xướng này, và trong một số trường hợp cụ thể, có thể biên soạn lại kịch bản, nội dung diễn xướng cho phù hợp với nhu cầu văn hóa của người dân trong bối cảnh hiện nay; 3/ Tìm kiếm, phát hiện những cá nhân điển hình, tích cực trong việc tổ chức và tham gia các lễ hội để bồi dưỡng và phát triển. Đặc biệt chú trọng việc chuyển giao và tiếp nối kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo giữa các thế hệ; 4/ Song song với các hoạt động trên, nhà nước nên có những cơ chế riêng về chính sách khen thưởng và kinh phí hỗ trợ để loại hình nghệ thuật, trò chơi dân gian được tồn tại và phát triển bền vững trong bối cảnh lễ hội.
Cần có chính sách công nhận và chế độ đãi ngộ với những nghệ nhân có đóng góp xuất sắc cho việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa lễ hội ở địa phương. Những người dân có đóng góp tích cực cho hoạt động lễ hội cần được biểu dương khen thưởng. Bên cạnh đó, bảo đảm tính kế thừa của đội ngũ những cụ cao niên, nghệ nhân có vai trò, kinh nghiệm và sự am hiểu về tổ chức lễ hội, đồng thời phải giữ được tính thiêng liêng của lễ hội và đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tâm linh của các tầng lớp nhân dân.
2.3. Về công tác phát huy giá trị lễ hội
Khôi phục một số lễ hội văn hóa dân gian đang có nguy cơ bị mai một, xây dựng kế hoạch, tổ chức lễ hội định kỳ kết hợp với việc phục vụ phát triển du lịch sẽ góp phần tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế - xã hội cửa thành phố.
Chính quyền địa phương có thể linh hoạt, kết hợp với các công ty lữ hành tổ chức đưa khách du lịch đến tham dự lễ hội. Có thể thực hiện theo nhiều hình thức như công ty lữ hành hỗ trợ một phần kinh phí cho lễ hội, hoặc bao thầu trọn gói để phục dựng lễ hội, hoặc chọn các địa bàn có tổ chức lễ hội để đưa khách du lịch đến tham dự.
Tăng cường các hoạt động thương mại, dịch vụ như mở các gian hàng bán sản phẩm, đặc sản của địa phương như mỹ nghệ đá Non Nước, nước mắm Nam Ô, bánh tráng Túy Loan, bánh khô mè Cẩm Lệ,...
Thực hiện xã hội hóa công tác tổ chức lễ hội nhằm huy động các nguồn lực xã hội, góp phần tiết kiệm ngân sách nhà nước theo hướng: 1/ Tiếp tục kêu gọi sự đầu tư và tài trợ của các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố; 2/ Có các cơ chế chính sách nhằm tạo môi trường thông thoáng để các doanh nghiệp có cơ hội tham gia vào quá trình tổ chức lễ hội nhưng đảm bảo không làm mất đi tinh thần lễ hội.
3. Thay lời kết
Có thể nói, lễ hội là một trong những loại hình sinh hoạt văn hóa có sức hấp dẫn và lan tỏa mạnh mẽ đối với các tầng lớp nhân dân trong xã hội và trở thành nhu cầu, khát vọng của mỗi người dân. Thông qua lễ hội, chúng ta tìm thấy những biểu tượng của tâm lý cộng đồng, văn hóa dân tộc trong thực tế lịch sử. Lễ hội là nơi minh chứng cho tính cố kết của cộng đồng, là biểu trưng cho nét đẹp văn hóa ngàn đời của ông cha ta. Mỗi lễ hội đều mang một nét tiêu biểu và giá trị riêng, nhưng bao giờ cũng hướng tới một một đối tượng linh thiêng cần được suy tôn. Với đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, lễ hội là cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, làm cho thế hệ trẻ hôm nay hiểu được công lao tổ tiên, thêm tự hào về truyền thống quê hương, đất nước của mình. Do đó, quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội trong đời sống đương đại như hiện nay là điều hết sức cấp thiết.
Đ.T.T.
Tài liệu tham khảo
- Trần Thị An. 2015. “Di sản lễ hội dân gian ở Thừa Thiên Huế. Khả năng khai thác di sản lễ hội này để phát triển du lịch văn hóa tâm linh ở Thừa Thiên Huế”. Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp phát triển bền vững loại hình du lịch văn hóa tâm linh trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh, Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên Huế.
- Phan Thuận An. 2003. “Lễ hội cung đình triều Nguyễn nhìn từ góc độ văn hóa và du lịch ngày nay”. Sông Hương, Số 167, Tháng 1.
- Toan Ánh. 2005. Nếp cũ - Tín ngưỡng Việt Nam (quyển Thượng, quyển Hạ). Nxb Trẻ.
- Thuận Hải. 2006. Bản sắc văn hóa lễ hội. Nxb Đà Nẵng.
- Lương Hoàng. 2002. Lễ hội truyền thống của các dân tộc Việt Nam khu vực phía Bắc. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2002.
- Đinh Gia Khánh. 1985. Ý nghĩa xã hội và văn hóa của hội lễ dân gian. Nxb Khoa học Xã hội.
- Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng [chủ biên]. 1993. Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại. Nxb Khoa học Xã hội.
- Lê Hồng Lý. 2008. Sự tác động của kinh tế thị trường vào lễ hội tín ngưỡng. Nxb Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa.
- Thu Linh - Đặng Văn Lung. 1984. Lễ hội truyền thống và hiện đại. Nxb Văn hóa.
- Nguyễn Thu Linh - Phan Văn Tú. 2004. Quản lý lễ hội cổ truyền: thực trạng và giải pháp. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
- Bộ Văn hóa Thông tin. 1993. Hội nghị - hội thảo về lễ hội. Vụ Văn hóa Quần chúng và Thư viện xuất bản.
- Bùi Thiết. 1993. Từ điển hội lễ Việt Nam. Nxb Văn hóa.
- Ngô Đức Thịnh. 2007. Về tín ngưỡng, lễ hội cổ truyền. Viện Văn hóa & Nxb Văn hóa Thông tin.
- Ngô Đức Thịnh và Frank Proschan [Chủ biên]. 2005. Folklore: Một số thuật ngữ đương đại. Nxb Khoa học xã hội.
- Ngô Đức Thịnh. 1999. “Mấy nhận thức về lễ hội cổ truyền”. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (11).
- Trương Thìn [Chủ biên]. 2002. Hội hè Việt Nam. Nxb Văn hóa thông tin.
- Phạm Thị Thanh Quy. 2009. Quản lý lễ hội cổ truyền hiện nay. Nxb Lao động.
- Dương Văn Sáu. 2004. Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, 2004.
- Nhiều tác giả. 2014. Lễ hội cộng đồng: Truyền thống và biến đổi. Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
- Thạch Phương - Lê Trung Vũ. 1995. 60 lễ hội truyền thống của người Việt Nam. Nxb Khoa học Xã hội.
- Đỗ Hạ - Quang Vinh. 2006. Những lễ hội truyền thống Việt Nam. Nxb Thanh Hóa.
Chú thích
[1] https://en.wikipedia.org/wiki/Festival#Etymology.
[2] Alessandro Falassi, “Lễ hội”, trong: Ngô Đức Thịnh và Frank Proschan (chủ biên), Folklore: Một số thuật ngữ đương đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005, tr.130.
[3] Lương Hoàng, Lễ hội truyền thống của các dân tộc Việt Nam khu vực phía Bắc, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2002.
[4] Trương Thìn (chủ biên), Hội hè Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, 2002.
[5] UBND thành phố Đà Nẵng, Tài liệu Hội nghị biểu dương đại biểu các dân tộc thiểu số thành phố Đà Nẵng lần thứ II, năm 2024, Đà Nẵng, ngày 15/11/2024.
[6] Trần Thị An, “Di sản lễ hội dân gian ở Thừa Thiên Huế. Khả năng khai thác di sản lễ hội này để phát triển du lịch văn hóa tâm linh ở Thừa Thiên Huế”, Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp phát triển bền vững loại hình du lịch văn hóa tâm linh trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh, Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên Huế, 2015.