Người mẹ trong thơ Nguyễn Ngọc Hạnh - Nguyễn Thị Thu Thủy

05.03.2020

Người mẹ trong thơ Nguyễn Ngọc Hạnh - Nguyễn Thị Thu Thủy

Trong trái tim đa sầu, đa cảm của thi sĩ, hình ảnh người Mẹ gần gũi như hình với bóng, luôn là niềm thao thức khôn nguôi với nhà thơ. Với Nguyễn Ngọc Hạnh, thi sĩ của đất Quảng, người Mẹ chiếm một phần sâu đậm trong thơ của ông, phần lớn là trong tác phẩm Phơi cơn mưa lên chiều, một tập thơ đang được độc giả nồng nhiệt đón nhận, được các nhà phê bình nhắc đến nhiều trong thời gian qua trên báo chí.

Hình ảnh người Mẹ của nhà thơ không hề xa lạ đối với chúng ta. Mẹ là người mang đậm hồn quê, dầm dãi nắng mưa suốt cả một đời trong ngôi làng nhỏ bên dòng sông Vu Gia êm đềm thời thơ ấu, nơi đầy ắp kỷ niệm tuổi thơ. Có phải vì thế mà những vần thơ dung dị, giàu trải nghiệm, đầy cảm xúc, giàu sáng tạo đã ra đời trên bến sông này: “Con đường quê dài như đời mẹ/ Tuổi thơ buồn trôi giữa mù khơi/ Mẹ nhớ ai như sông nhớ suối/ Sông dạt dào lòng mẹ, đời tôi”. Mẹ trong thơ ông là con đường làng, cái ngõ thân quen, chiếc đòn gánh, chiếc nón cong vành, thân cò sớm khuya lặn lội, lời ru thấm đượm nghĩa tình, là dòng sông bến nước con đò...

Đọc thơ Nguyễn Ngọc Hạnh, chúng ta dễ nhận ra chân dung Mẹ của thi nhân, cũng là người mẹ nghèo của bao người con đất Việt với nét tảo tần, sớm khuya nặng gánh chồng con, cả đời mẹ nhọc nhằn với mưa nguồn chớp bể, ấp ủ đàn con trong đôi gánh tảo tần:

Bóng mẹ gầy

lặn lội bờ sông

Đêm giá lạnh

ẵm bồng ru tiếng khóc

Nỗi niềm trôi xuôi

theo con đò dọc

Trôi cả thời thiếu nữ mẹ tôi

                                 (Qua đò nhớ mẹ)

Dung lượng câu chữ không nhiều nhưng mỗi bài thơ đúc kết tâm tư của một hồn thơ chân chất quê nhà. Bóng dáng người mẹ luôn thấp thoáng đâu đây trong cái ngõ hẹp đầy ký ức của nhà thơ: “ngõ hẹp dần/ lối mòn cũng nhỏ dần/ mòn con đường làng/ mỗi ngày mẹ tôi ra sông giặt áo/ mòn ánh trăng khuya/ cong vuốt lưỡi liềm/ rơi xuống chạm ngõ nhà em” (Ngõ hẹp). Từ cái ngõ hẹp ấy, ý thơ Nguyễn mở ra hình ảnh của dòng sông, chợ chiều, dẫn dắt người đọc đến với ngôi làng nhỏ mà nhà thơ yêu như máu thịt. Đặc biệt trong cái làng ven sông bên chân núi ấy với ông như vòng tay mẹ: “Làng tôi núi bọc bốn bề/ Ấp yêu như vòng tay mẹ/ Ôm tôi cả thời thơ bé/ Bao ngày trôi dạt xa quê” (Chợ quê). Nguyễn Ngọc Hạnh yêu cái làng quê của mình, nên khi xa làng lòng mới đau như cắt: “đêm xa làng đong đầy nước mắt/ nhớ mẹ tôi/ nhớ cha tôi khuya sớm trên đồng”. Có phải vì thế mà nhà thơ Du Tử Lê viết về tình  mẹ và tình quê của Nguyễn Ngọc Hạnh là một cặp song sinh: “không chỉ như hai ngọn hải đăng lớn trong biển nghiệp thi ca Nguyễn Ngọc Hạnh mà, với tôi, nó còn mang tính song - sinh của tâm - lượng thi sĩ giữa con người và đất nước nữa... Nhiều người viết về mẹ, nhưng cách nói về mẹ của Nguyễn Ngọc Hạnh, là cách nói trước đây tôi chưa hề thấy...”.

Người mẹ của nhà thơ bao giờ cũng hiện lên thật đời thường với đôi quang gánh trên vai sớm tối giữa chợ quê, tảo tần buôn bán nuôi đàn con khôn lớn thành người:“Ai bày ra giữa chợ quê/ Cây đòn gánh cong đời mẹ/ Chiếc nón cong vành dâu bể/ Cho đời con được thẳng ngay” (Chợ quê). Hình ảnh đối lập giữa nét cong của chiếc đòn gánh trĩu nặng hai đầu gióng, chiếc nón cong vành trì chặt bởi hai đầu quai với “đời con thẳng ngay” gợi nhiều liên tưởng hàm chứa nhân cách của nhà thơ giữa cuộc đời này. Ý thơ kết chứa niềm tri ân và cả những suy ngẫm về đời, về mình. Mẹ hi sinh cả cuộc đời để vun đắp cho con, bồi đắp phù sa đời mẹ, gạn đục khơi trong để đời con “ngay thẳng” làm người, dù bao biến động của cuộc đời vẫn không hề vẩn đục.

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh hiển hiện trước chúng ta một người mẹ nghèo, đơn độc, vò võ năm canh, sanh nở đứa con trong niềm đau đứt ruột; để rồi sớm khuya dưỡng dục, đợi chờ chồng trong héo hon mỏi mòn: “Cha đi rồi/ lều tranh một mái/ mẹ một mình/ sanh nở những niềm đau/ giọt nước mắt đắng cay/ ngày mẹ tôi trở dạ” (Chạm đáy sông đầy). Nỗi đau trở dạ ấy cứ trở đi trở lại trong thơ anh như niềm ám ảnh, như nỗi đau đứt ruột của con tằm nhả cho đời những lọn tơ vàng óng.

Nguyễn Ngọc Hạnh gọi mỗi lần sinh nở của mẹ là một cuộc đi biển, một mình đối diện với con sóng dữ để “cho con lành lặn giấc mơ”(Chỗ mẹ nằm). Ý thơ gợi nhớ đến câu ca của ông cha ngày xưa: “Đàn ông đi biển có đôi, đàn bà đi biển mồ côi một mình”. Ít có nhà thơ nào như Nguyễn Ngọc Hạnh lại “mơ được một lần làm mẹ/ để sinh con”, tình thương yêu ấy đã thấm vào trong từng câu chữ.

Chưa hết, người Mẹ ấy không chỉ đau nỗi đau trong cuộc sinh thành mà còn sẵn sàng đối diện với bao kham khổ, khó khăn. Sinh một đứa con lành lặn đã khó, chăm một đứa trẻ từ khi còn đỏ hỏn đến khi thành người đâu dễ. Nhà thơ luôn hiểu và đồng cảm với những trăn trở của người mẹ nghèo: “giá rét trên từng manh chiếu vá/ mẹ chừa bên ráo để con lăn” (Chỗ mẹ nằm). Có trải qua những năm tháng thiếu thốn của chiến tranh và đói nghèo, chúng ta mới hiểu giá trị của những manh chiếu vá ấy. Manh chiếu là mảnh chiếu còn sót lại, lại phải vá vì thủng, vì rách nhưng Mẹ chọn chỗ nằm bên ướt, bên những tủi cực để cho con được lành lặn, ấm áp mà lớn khôn.

Thế nhưng đời mẹ như ngọn bấc lúc cạn dầu, Mẹ không sống mãi cho đến ngày đứa con hiểu ra, đền đáp. Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh thường nhớ về ký ức, thương lắm ngày xưa, ông luôn ước ao những phút bất chợt, để mơ một giấc mơ về ngày xưa bên mẹ: “giấc mơ về ngày mẹ sinh tôi/ trong vườn lá chuối khô thô ráp”, rồi cảm xúc bất chợt dâng trào: “bất chợt nhớ ngày xưa đến lạ/ mơ được một lần làm mẹ để sinh con” (Chạm đáy sông đầy). Người con tha hương ấy dù trải qua bao biến cố cuộc đời, trái tim luôn hướng về Mẹ. Mẹ là cả một niềm thơ, luôn hiển hiện qua  hình ảnh người vợ, người con gái, qua nhân vật trữ tình “em”. Nhà thơ đang ngồi hát những câu hát ru của mẹ thưở nào như đang tự sự với chính mình, đang thủ thỉ với người đã khuất: “Nơi mẹ ru em thời thơ ấu/ Là nơi tôi ngồi hát ru mình”.

Có thể thấy, người Mẹ trong thơ Nguyễn Ngọc Hạnh thật gần gũi, nhân hậu, giàu đức hi sinh như bao bà mẹ quê hương trong trái tim của bao người con xa xứ.

N.T.T.T