Thương tiếc nhà thơ Tường Linh (1930 – 2021)

06.02.2021
Như Nghĩa
Nhà thơ Tường Linh - một người con của quê hương xứ Quảng - đã ra đi ngày 5/2/2021 (nhằm ngày 24 tháng Chạp năm Canh Tý), hưởng thọ 91 tuổi. Liên hiệp các Hội Văn học – Nghệ thuật thành phố Đà Nẵng chia buồn cùng gia đình và bạn hữu nhà thơ Tường Linh.

Thương tiếc nhà thơ Tường Linh (1930 – 2021)

Nhà thơ Tường Linh có tên khai sinh Nguyễn Linh, sinh ngày 12-12-1930 tại làng Trung Phước, huyện Quế Sơn (nay là Quế Trung, Nông Sơn), tỉnh Quảng Nam. Ông xa quê từ năm 1954, ra sống ở Huế, Quảng Trị. Đến năm 1956 thì vào đinh cư ở miền Nam.  Hiện này nhà thơ sinh sống cùng gia đình tại số nhà 72/6 đường Bạch Đằng, phường 24, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.

Tường Linh sáng tác nhiều từ những năm 1950, nổi tiếng với những bài thơ về tình yêu quê hương đất nước. Ông thuộc lớp các thi sĩ Quảng Nam xuất hiện vào những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài thơ Chị Điện Hoà (1950) và Năm cụm núi quê hương (1954) của ông được nhiều người thuộc lòng, mãi cho đến nay. Năm 2011 Tường Linh đã thực hiện một tuyển tập thơ dày 672 trang do Nhà xuất bản Văn học phát hành.

Các tập thơ của Tường Linh đã xuất bản:

- Thơ tập làm thuở nhỏ (in thạch bản tại Tam Kỳ, 1950)

- Mùa đi (in thạch bản tại Bồng Sơn, 1953)

- Mùa hoa cải (in tại Huế, 1955)

- Mây cố quận (NXB Tao Đàn, Sài Gòn, 1962)

- Nghìn khuya (NXB Tao Đàn, Sài Gòn, 1965)

- Thu ơi từ đó (NXB Tao Đàn, Sài Gòn, 1972)

- Giọt cổ cầm (NXB Đà Nẵng, 1998)

- Về hỏi lại (NXB Đà Nẵng, 2001)

- Thơ Tường Linh tuyển tập (NXB Văn học, 2011)

 Nhà thơ Tường Linh đã ra đi ngày 5/2/2021(nhằm ngày 24 tháng Chạp năm Canh Tý), hưởng thọ 90 tuổi. Liên hiệp các Hội Văn học – Nghệ thuật thành phố Đà Nẵng chia buồn cùng gia đình và bạn hữu nhà thơ Tường Linh. Ban biên tập Trang Văn nghệ Đà Nẵng trân trọng giới thiệu đến bạn đọc chùm thơ Tường Linh, trích trong tuyển tập THƠ TƯỜNG LINH, NXB Văn học, 2011.


  Đi giữa đôi bờ

 Tôi về, thuyền ngược nước sông Thu
Thăm thẳm nguồn xa, núi mịt mù
Mưa vẫn còn mưa, chiều vẫn lạnh
Đôi bờ hiu hắt, bãi hoang vu

 

Đứng lặng trong mưa Vĩnh Điện buồn
Chân cầu trắng xóa nước sông tuôn
Thuyền lên mắt nuối bờ sông khuất
Cổ tháp Bằng An lạnh lẽo hồn

 Qua nhánh sông này, mưa, vẫn mưa
Có gì khơi lại nỗi niềm xưa
Tình ơi, Giao Thủy hai nguồn nước
Gặp gỡ nhau sao chẳng đợi chờ?

 Bến mộng Gia Hòa xanh ngát dâu
Áo tơ vàng cũ biết tìm đâu
Con đường dương liễu reo ngày trước
Dương liễu chiều nay vọng nhạc sầu

 

Núi điệp trùng vây, quê ta ơi!

Về đây người lại nhớ nhung người
Chợ chiều Trung Phước mờ sương khói
Dâu biển bao nhiêu lắm đổi dời!

 Mai sớm tôi đi, thuyền xuôi dòng
Đôi bờ, xin gửi chút thương mong
Quê hương chớ gọi tôi là khách
Bài độc hành ca viết chửa xong.

Quê nhà, 9-9-1964

Mây Cố Quận

 

 Dừng lại quán lưng đèo uống rượu

Một mình đối mặt với non cao

Khói dâng lũng thấp, sườn mây nhạt

Tiếng suối xa reo, phải núi chào?
 

Vươn cánh đại ngàn chạm trắng mây

Quần sơn, thạch trận vẫn bày đây

Không là tráng sĩ hồi nguyên quán

Rượu đón, đèo xưa chén mãi đầy
 

Ngứa tay, đâu có gươm mà vỗ

Bi tráng... phân vân tiếng khóc cười

Vó ngựa ruổi qua thời lửa rực

Không còn về với tuổi đôi mươi
 

Chủ quán! Rót riêng ly rượu mới

Để ta mời núi luận anh hùng

Núi im, chẳng lẽ mình ta luận?

Lại uống mà suy chuyện thủy chung
 

Mây lượn ngang đèo sang hướng tây

Hướng tây mẹ đợi vóc hao gầy

Lời kinh khuya nuối liềm trăng khuyết

Tuổi hạc nghe tường ý cỏ cây
 

Cố quận ngày về ta với ta

Đèo cao nắng hửng phía quê nhà

Uống thêm ly nữa và đi tiếp

Rượu bốc lời thơ gởi gió xa

 

 Khúc ca quy ẩn

 Bạch diện qua rồi, vẫn trắng tay
Thư sinh buổi trước, gã cuồng nay
Lạc đường quay ngựa, vương tình bút
Xa ruộng, lìa quê, nhớ luống cày …


Ðọc sách nửa đời chưa sáng ý
Bão bùng tơi tả cánh mơ bay
Nghìn câu nguyện ước tan theo mộng
Ráng đỏ mây phai nắng cuối ngày


Hiên vắng ta ngồi đêm nguyệt tận
Mắt buồn người hiện giữa cơn say
Khúc thu người tiễn ta chiều cũ
Dương liễu đầu sông lá rụng đầy


Không chén trường đình mà lảo đảo
Không màng sự nghiệp cũng ngây ngây
Sông Thu nào phải là sông Dịch
Hai phía thầm đau nhạn lạc bầy


Ta đã hẹn người ngày tái kiến
Hội Xuân đời ghép hội rồng mây
Người không còn nữa, ta phiêu dạt
Trở lại còn ai gặp nữa đây ?


Quê cũ, cổng làng ai đứng đợi ?
Chiều Xuân lạnh chiếu rượu xuân bày
Sông xưa lở cả đôi bờ đẹp
Hoang vắng, đò thôi cập bến này


Trời mênh mông quá, vô tình quá !
Không hận nhưng lòng tiếc lắm thay !
Vốn nặng cưu mang tình cố lý
Về nhìn hiên cúc gió thu lay


Ta ngâm khe khẽ bài tương biệt
Người trách thầm qua nét nhíu mày
Nhân ảnh mờ chìm trong đáy cốc
Rượu chiều sóng sánh bởi heo may


Ta chờ nghe tiếng thân thương cũ
Người gửi riêng ta thuở đọa đày
Chiều bỗng tuôn mưa, trời nổi sấm
Chén buồn còn lại chất men cay


Bóng người mãi mãi là hư ảnh
Mưa suốt đêm trường, gió lạnh vây
Rượu rót chờ người không hiện nữa
Bài thơ chiêu niệm ý hao gầy


Cố nhân ! Ta gọi tên bằng hữu
Vạn nẻo trầm luân mất dấu giày
Ta ngó lên nguồn, trông xuống biển
Hỏi cùng nam bắc, hỏi đông tây …


Lặng im xẻ nghé tan đàn hết !
Tiếp những mười năm hẹn đã chầy
Mồ bạn lạc loài bao cõi lạ
Nén hương chưa đốt tỏ lòng này


Tri âm, tri kỷ như sao sớm
Chút nghĩa kim bằng cũng hiếm thay !
Cuối cuộc viễn hành đơn độc quá
Bơ phờ cánh hạc khép đường bay


Gẫm bao chí lớn trong thiên hạ
Chẳng được còn xanh với cỏ cây
Thì ta một chấm nhân sinh nhỏ
Mong mỏi gì hơn ở kiếp này?


Cũng chẳng tính chi còn với mất
Càng không than vãn chuyện riêng tây
Ðàn xưa trỗi lại bài lưu thủy
Lắm nỗi niềm trao với nước mây


Khúc ca quy ẩn đưa xa nhịp
Khắc nét đời thơ chiếc bóng gầy
Vang mãi dư âm triều hệ lụy
Thơ chào tuyệt tích gửi ai đây?

                     Tân Tỵ 2001

 

  Uống rượu với ông lái đò bến cũ

 Ngồi nán lại ngắm trăng cùng với lão
Khuya rồi khỏi ngại khách sang sông
Rượu còn hơn nửa chai cũng đủ
Nhớ lung tung và chuyện thêm nồng

 Ngày chú nhỏ bỏ làng đi biệt
Lão cũng vừa chí tuổi trung niên
Tuổi đời cách chẵn hai con giáp
Ba mươi năm, chú lưu lạc bao miền?

 Thưa, cụ vẫn đưa đò không nghỉ
Đưa đò ròng rã bấy nhiêu năm?

 Cũng như chú nhỏ làm thơ vậy
Nào khác đưa đò cho thế nhân
Phần lão đi hoài không thấy đến
Trên sóng đâu quyền được mỏi chân?

 

Chén này chú phải cạn nguyên chén
Ơ kìa sao mắt lại se buồn?
Chú về khuya khoắt gay tôm cá
Chỉ có trăng đầy với rượu suông!

 Cháu hỏi câu này không phải lắm:
Cụ có bao giờ muốn đổi thay
Cái nghề đi mãi mà không đến
Lắm dập vùi xưa, bạc bẽo nay?

 Ông lão ném chai vừa hết rượu
Làm xao nhẹ mặt sóng lăn tăn
Trả lời, chỉ tiếng cười khanh khách
Chỉ tiếng cười lay buốt ánh trăng…

               Sinh nhật 12.12.1991

 

 Tuổi con ngựa

 

Mẹ kể rằng tôi sinh vào tháng chạp

Tiết trời sau đông chí lắm sương mù

Quê thung lũng như được dầm trong sữa

Bấc khuya luồn lạnh cóng cả lời ru

 

Mẹ lo lắng cho đứa con tuổi Ngựa *

Chạy cả đời danh lợi chẳng bằng ai

Mâm thôi nôi lại bốc nhầm cây bút

Lượm hòn xôi, xấp bạc vứt ra ngoài

 

Mẹ thường kể vào một ngày tháng chạp

Như món quà thêm tuổi của thằng con

Chỉ có vậy, không tiệc mừng sanh nhật

Tiếng thác ngàn dội lại giữa sườn non

 

Và sương trắng cứ tầng tầng lớp lớp

Quánh đặc trời buổi sáng lúc vào đêm

Đường liên ấp hai bờ tre sướt mướt

Những ngọn đèn xóm vạn hắt hiu thêm

 

Sương sa đậm tận mấy ngày giáp tết

Đến chợ làng bóng mẹ tựa trong mây

Sông thức giấc phả ngược luồng gió chướng

Thổi cong rèm sương phủ, hạt sương rây

 

Vó câu nhi lên đường chiều tháng chạp

Mang theo đời ký ức tháng mù sương

Hí gió bấc từ góc miền luân lạc

Chạm hồn mùa sương lạnh phía quê hương

 Tường Linh

 * Tác giả tuổi Canh Ngọ, chào đời cận tết nguyên đán nên sang năm dương lịch 1931.