Nội dung, phương pháp vận động quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc theo tư tưởng Hồ Chí Minh

28.07.2018

Nội dung, phương pháp vận động quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung: “Tất cả vì dân, thực hành dân chủ và đoàn kết toàn dân” trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc nhở lực lượng Công an nhân dân, để được dân tin, dân yêu: “Ta quan tâm đời sống quần chúng thì quần chúng sẽ theo ta. Ta được lòng dân thì ta không sợ gì cả. Nếu không được lòng dân thì ta không thể làm tốt công tác”(1). Lời dạy của Người như nhắc nhở lực lượng Công an trong quá trình vận động quần chúng tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc, không chỉ phòng, chống tội phạm, cảnh giác trước âm mưu chống phá của các thế lực thù địch mà còn phải quan tâm đến việc tổ chức, xây dựng đời sống mới nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh không những muốn nhân dân có cuộc sống đầy đủ về vật chất mà còn phải phong phú về mặt văn hóa tinh thần. Nếu đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao, lợi ích chính đáng được bảo đảm thì họ mới yên tâm góp sức mình phụng sự Tổ quốc.

Trên tinh thần đó, trong quá trình vận động quần chúng tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc, lực lượng Công an các cấp luôn quán triệt quan điểm: sự ổn định và phát triển mọi mặt của đời sống xã hội là nền tảng vững chắc của an ninh quốc gia. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của quần chúng là một biện pháp phòng ngừa cơ bản, có tính chiến lược nhằm loại trừ những nhân tố phát sinh, phát triển tội phạm từ bên trong cũng như sự lợi dụng tác động của kẻ địch từ bên ngoài. Vận động quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc là hoạt động mang tính toàn diện, trên khắp các lĩnh vực của cuộc sống, làm cho quần chúng không chỉ tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc mà còn biết chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ngày một tốt hơn. 

Thực tế cho thấy, ở đâu dân sinh ổn định, nguyện vọng được giải quyết thì ở đó trật tự xã hội bình yên và ngược lại nếu chỉ dừng lại ở tuyên truyền, vận động mà không có sự quan tâm đến lợi ích thiết thân của quần chúng thì không thể giải quyết một cách triệt để yêu cầu công tác vận động quần chúng tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc. Từ thực tiễn đó, lực lượng công an các cấp thông qua công tác địa bàn, công tác quản lý hành chính, luôn nắm vững tình hình dân sinh, dân nguyện, để tham mưu, đề xuất và phối hợp với chính quyền, đoàn thể các cấp giải quyết một cách kịp thời những vấn đề có liên quan đến lợi ích thiết thực của quần chúng. Đây là nhân tố quan trọng nhằm lôi kéo quần chúng đứng về phía cách mạng, không để địch lợi dụng, lôi kéo.

Phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc có đi vào cuộc sống hay không là ở chỗ “dân phải biết”, phải nắm được các chủ trương, kế hoạch hành động trên lĩnh vực an ninh trật tự. Về vấn đề này, V.I. Lê-nin đã nói: “Một nước mạnh là nhờ ở sự giác ngộ của quần chúng. Nước mạnh là khi nào quần chúng biết rõ mọi cái, quần chúng có thể đi vào hành động một cách có ý thức”(2). Vì vậy, để phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong bảo vệ an ninh Tổ quốc, lực lượng công an các cấp đã không ngừng sử dụng mọi hình thức, biện pháp tuyên truyền giáo dục để quần chúng nắm được các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Đồng thời phổ biến các quy ước, thể lệ về an ninh trật tự và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong từng thời kỳ phù hợp với lợi ích của quần chúng; chủ yếu là các chủ trương về phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự, chính sách về đoàn kết dân tộc, tôn giáo...tất cả đều vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Bên cạnh đó, phải tuyên truyền cho quần chúng thấy rõ âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, hoạt động của tội phạm và những hậu quả, tác hại của nó, hướng dẫn quần chúng những nội dung có liên quan đến trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ công dân được quy định trong hiến pháp, pháp luật nhằm hạn chế tình trạng bị kích động, lôi kéo khiếu kiện đông người gây phức tạp về an ninh trật tự.

Quần chúng nhân dân không những là lực lượng đông đảo mà còn là lực lượng có trí tuệ và nhiều sáng kiến nên ý kiến và kinh nghiệm của dân thật sự quan trọng, chính vì vậy phải biết lắng nghe, tin dân và học dân. Người nói: “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(3). Công an nhân dân dù là lực lượng chuyên trách quản lý nhà nước về an ninh trật tự, thi hành pháp luật và bảo vệ pháp luật nhưng không vì thế mà xa rời nhân dân, ra mặt, ra oai với nhân dân mà nhất thiết phải tạo điều kiện để nhân dân tham gia bàn bạc, nhân dân “hiến kế”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm công an nói riêng cũng như làm cán bộ cách mạng nói chung là làm “đầy tớ” cho nhân dân chứ không phải làm “quan cách mạng”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Phải nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước, mình như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết”(4) và “Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”(5). Lời dạy của Người là sự khẳng định sức mạnh của mỗi người dân góp thành lực lượng toàn dân, đó cũng là yếu tố quyết định trong phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, nếu lực lượng công an phát huy được thì sẽ thắng lợi, không phát huy được sẽ thất bại. 

Trong quá trình quần chúng tham gia bảo vệ an ninh trật tự, lực lượng làm công tác dân vận luôn đi sâu, đi sát quần chúng để hướng dẫn quần chúng thực hiện từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, đồng thời tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp lãnh đạo, chỉ đạo các ngành tham gia và hướng dẫn nghiệp vụ công tác bảo vệ an ninh trật tự cho nhân dân. Đó chính là thực hiện chủ trương từng bước xã hội hóa công tác bảo vệ an ninh trật tự trong tình hình mới, đưa công tác an ninh trật tự vào cuộc sống hằng ngày của nhân dân.

Để phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc luôn duy trì thường xuyên, có hiệu quả, tránh tình trạng hình thức, tự phát theo lối “có phát mới động” hay lúc đầu thì rầm rộ về sau thì kém dần, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân. Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”(6). Công an các cấp, căn cứ vào các kế hoạch đã đề ra, thường xuyên tham mưu và hỗ trợ các cấp ủy đảng, chính quyền kiểm tra sâu sát từng mô hình quần chúng bảo vệ an ninh trật tự, đối chiếu những việc đã làm được, những gì chưa hoàn thành. Qua đó đánh giá tiến độ và chất lượng phong trào, phát hiện những lệch lạc để khắc phục và phát hiện những cá nhân, tổ chức, địa bàn có cách làm hay, sáng tạo để đúc kết kinh nghiệm, bồi dưỡng xây dựng thành những điển hình; đề xuất các chủ trương, biện pháp xây dựng và nhân rộng các mô hình điển hình tiên tiến trong phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc. 

Thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chính là những biện pháp quan trọng để củng cố mối quan hệ giữa Công an với nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc, đồng thời cũng là biện pháp để xây dựng nhân cách người cán bộ chiến sĩ Công an nhân dân trong quan hệ với nhân dân. Trong giai đoạn hiện nay, để không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực an ninh trật tự, lãnh đạo Bộ Công an đã xác định toàn bộ các hoạt động công tác chiến đấu, mọi chủ trương công tác phải lấy mục tiêu phục vụ nhân dân, bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia nhiều hơn, tốt hơn, trực tiếp hơn vào công tác bảo vệ an ninh trật tự và xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch, vững mạnh.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung: “Xây dựng khối đoàn kết toàn dân” trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc là một nhiệm vụ mang tầm chiến lược, sự nghiệp đó không thể là công việc của vài ba người hay sức mạnh của một tổ chức, một lực lượng, một đoàn thể nào đó mà phải là sức mạnh của toàn dân tộc, của nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong điều kiện một nước có nhiều dân tộc anh em như ở Việt Nam, thì vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc là hết sức quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Địch dùng tự trị giả để chia rẽ các dân tộc, để phá hoại sức kháng chiến. Ta phải kịp thời dùng tự trị thật để đoàn kết các dân tộc, để đẩy mạnh kháng chiến”(7) và trên hết là vì “Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta”(8).

Nói chuyện với Bộ đội, Công an và cán bộ trước khi về tiếp quản Thủ đô, Người nói: “Cuối cùng Bác dặn các cô, các chú: Về xuôi phải làm gương mẫu trong mọi việc, tùy hoàn cảnh của mình mà gần gũi, giúp đỡ nhân dân. Gương mẫu trong lời nói, việc làm, thái độ, sao cho người ta thấy rõ mình là con người kháng chiến. Ngay đối với những người không kháng chiến, những người “dinh tê” cũng không khinh rẻ họ, mà phải giúp đỡ cho họ tiến bộ, để họ cùng ta làm việc. Việc nước là việc chung, mà việc thì rất nhiều, chỉ Bác cháu ta không làm hết việc đâu. Chúng ta phải dùng năng lực của mọi người”(9). Chính sách khoan dung của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một chính sách cách mạng có tính nguyên tắc, hoàn toàn xa lạ với chính sách thực dụng của bọn cơ hội chủ nghĩa chỉ nhằm mục đích cục bộ nhất thời. Theo tinh thần “gạn đục, khơi trong”, phương pháp đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với lực lượng trung gian là xóa bỏ mọi thành kiến, mặc cảm, khơi gợi, cổ vũ ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước; chân thành hợp tác và trọng dụng họ. Người nhiều lần tha thiết kêu gọi tất cả những người yêu nước, không phân biệt tầng lớp nào, chính kiến nào và trước đây đã đứng về phía nào chăng nữa thì nay hãy thật thà cộng tác vì dân, vì nước. Người cũng chỉ rõ, những viên chức cũ, những sỹ quan, binh lính của thực dân Pháp và bù nhìn, ai cải tà quy chính đều được Chính phủ và dân ta đối đãi khoan hồng. Bởi theo Người: “đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang”(10).

Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang thực hiện công nhiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề cơ cấu giai cấp xã hội đã có những biến động mới; cùng với sự nghiệp đổi mới thì quá trình mở cửa, hội nhập với các nước trên thế giới cũng đang được đẩy mạnh. Các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ âm mưu xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Vì thế trong điều kiện hoàn cảnh mới, công tác dân vận, công tác vận động quần chúng của lực lượng công an nhân dân cần phải đổi mới toàn diện. Lực lượng trong khối đoàn kết không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia với các giai cấp, dân tộc, tôn giáo trong cộng đồng người Việt Nam mà cần phải hướng đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, các cá nhân, tổ chức và các lực lượng tiến bộ trên thế giới theo phương châm mà Đảng ta đã xác định “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế”(11). Đó chính là sự vận dụng sáng tạo chính sách ngoại giao của Chính phủ Việt Nam mà Hồ Chí Minh từng tuyên bố và thực hiện trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc, đó là “thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa bình”(12).

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp: “Bám sát thực tiễn, sâu sát cơ sở để có nội dung, phương pháp và hình thức vận động quần chúng phù hợp, hiệu quả”

Vận động quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc là sự tác động có mục đích đối với từng đối tượng và con người cụ thể, trong từng thời điểm và địa bàn cụ thể, do đó tư tưởng của Hồ Chí Minh về “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm” trong công tác dân vận là đòi hỏi đối với lực lượng Công an nhân dân khi tổ chức xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc phải căn cứ vào tình hình cụ thể và phải đáp ứng được lợi ích, nguyện vọng của nhân dân. 

Khi nói, óc nghĩ (tư duy) trong bảo vệ an ninh Tổ quốc tức là nói đến sự suy tính, tìm tòi những mô hình bảo vệ an ninh trật tự phù hợp với từng đối tượng, địa bàn và lợi ích của quần chúng trong từng giai đoạn cách mạng. Quán triệt tinh thần đó, ngay từ những ngày đầu mới giành được chính quyền cũng như trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, phong trào bảo vệ an ninh trật tự được tiến hành theo các mô hình “bảo mật phòng gian”, “diệt tề trừ gian” với khẩu hiệu “Ba không” (không nghe, không biết, không thấy) được phát động trong khắp các vùng miền của cả nước, kể cả những nơi bị địch tạm chiếm, đã thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, tạo thành sức mạnh vô hiệu hóa nhiều âm mưu và hoạt động chống phá của địch, không để chúng gây thiệt hại cho cách mạng. Sau ngày hòa bình lập lại, miền Bắc đã phát động phong trào “bảo vệ trị an” ở ngoài xã hội và mở cuộc vận động “Bảo mật phòng gian” trong cơ quan, xí nghiệp, thực hiện khẩu hiệu ba phòng: phòng gian, phòng hỏa, phòng tai nạn. Các phong trào này đã góp phần làm thất bại mọi âm mưu đen tối của các thế lực thù địch... Tại chiến trường miền Nam trên cả ba vùng chiến lược, phong trào “bảo mật phòng gian” tiếp tục được phát động rộng khắp góp phần phòng, chống các hoạt động do thám, gián điệp của Mỹ - ngụy, bảo vệ nội bộ, bảo vệ cơ quan và các căn cứ địa cách mạng an toàn. 

Nếu như trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, nguyện vọng của nhân dân là đấu tranh chống Việt gian phản động, cường hào gian ác, gián điệp và tội phạm khác, thì ngày nay trong thời kỳ hòa bình, xây dựng phát triển kinh tế gắn với hội nhập quốc tế, nguyện vọng của nhân dân là thực thi quyền dân chủ và bình đẳng, đồng thời đấu tranh chống diễn biến hòa bình, đấu tranh với tội phạm có tổ chức, tội phạm hoạt động theo kiểu “xã hội đen”, tội phạm phi truyền thống, nhất là đấu tranh phòng, chống ma túy, loại tệ nạn xã hội đang hằng ngày, hằng giờ đe dọa cuộc sống bình yên của nhân dân. Do đó, để phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, công tác dân vận phòng, chống tội phạm đã được lồng ghép giữa các đề án của Chính phủ với các phong trào vận động quần chúng, thông qua đó tạo ra thế trận toàn dân tham gia phòng, chống và tố giác tội phạm. Công tác dân vận còn được tiến hành thông qua các hình thức tự quản, tự phòng, tự bảo vệ về an ninh trật tự tại cộng đồng dân cư. Mô hình tổ chức này nhằm tạo ra sự gắn bó giữa quyền và nghĩa vụ công dân trong phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc. Vì tự quản, tự phòng, tự bảo vệ là tự mình làm an ninh cho mình, cho gia đình mình rồi đến an ninh cho cộng đồng, lợi ích xã hội trong công tác bảo vệ an ninh trật tự, tạo ra động lực thúc đẩy ý thức tự giác của quần chúng nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự. 

Cùng với “óc nghĩ” người cán bộ dân vận cần phải “mắt trông, tai nghe, chân đi” tức là phải quan sát thực tiễn, phải sâu sát cơ sở để lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân để qua đó đề xuất hoặc đề nghị điều chỉnh chính sách cho phù hợp rồi vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách một cách tích cực và hiệu quả. “Tai nghe” là biểu thị thái độ biết lắng nghe và nghe những ý kiến khác nhau, đặc biệt là ý kiến mà dân chân thành góp ý, sự phê bình của nhân dân đối với mình để tìm ra cách thức và mô hình bảo vệ an ninh trật tự thật sự hiệu quả.

Trên tinh thần đó, lực lượng công an các cấp đã tăng cường chỉ đạo cán bộ chiến sĩ thường xuyên gần gũi, tiếp xúc với quần chúng, để nắm tâm tư nguyện vọng và những vướng mắc của quần chúng, đặc biệt đối với những vùng dân tộc, miền núi khó khăn lại càng đòi hỏi cán bộ chiến sĩ phải nhận thức và thực hiện bốn cùng “cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc”, bốn bám “bám thôn bản, bám dân, bám đối tượng, bám cán bộ cơ sở”. Trên cơ sở đó, tuyên truyền vận động và giải thích cho quần chúng hiểu rõ vị trí, vai trò của phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc với công tác quản lý xã hội của Nhà nước và hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm của lực lượng công an nhân dân. Đồng thời tuyên truyền hướng dẫn quần chúng biết cách tham gia vào các hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các hoạt động khác để bảo vệ an ninh trật tự.

Thực tế cho thấy, với chủ trương tăng cường lực lượng trực tiếp chiến đấu về cơ sở với số lượng lớn cán bộ chiến sĩ (điều tra, trinh sát và quản lý hành chính) được tăng cường về các địa bàn quận, huyện, xã, phường, thị trấn... nhằm nâng cao chất lượng công tác nghiệp vụ, nhất là tại các địa bàn vùng sâu, xa nhằm thực hiện tốt phương châm dùng “người thật, việc thật” để vận động nóng, theo phương thức địch tuyên truyền ở đâu ta vận động ngay đó (bằng tiếng nói của những đối tượng chống đối sau khi được cảm hóa) để vạch mặt kẻ xấu, không để cho dân bị lừa bịp, khống chế, qua đó tạo ra thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ trương đó đã phát huy tác dụng tích cực trong đấu tranh làm thất bại âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, đặc biệt là âm mưu thành lập “Vương quốc Mông”, “Nhà nước Đề-ga tự trị” và vấn đề Khơme Krôm trên các địa bàn Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ.

Những kết quả thực tế về công tác vận động quần chúng trong những năm qua của lực lượng công an nhân dân thể hiện sự quán triệt sâu sắc tư tưởng, phong cách dân vận Hồ Chí Minh, thể hiện sự linh hoạt trong tổ chức và chỉ đạo phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những hạn chế nhất định như: Mô hình vận động quần chúng vẫn còn đơn điệu chưa gắn kết và theo kịp với diễn biến tình hình phát triển kinh tế xã hội; chưa thật sự thu hút được mọi giới chức, tầng lớp xã hội tham gia phong trào; đối tượng chủ yếu vẫn là quần chúng lao động, tín đồ tôn giáo...; chưa chú ý đến đối tượng là thành phần cán bộ, công chức trong các cơ quan, doanh nghiệp, đối tượng là người nước ngoài, Việt kiều đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam; trong quá trình tổ chức và thực hiện phong trào vẫn còn không ít cán bộ, chiến sĩ chưa thật sự nêu gương trước quần chúng, còn đùn đẩy, né tránh công việc, chưa thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư... ít nhiều cũng đã làm giảm niềm tin của quần chúng nhân dân đối với lực lượng công an nhân dân. 

Thực tế đó, đòi hỏi cán bộ chiến sĩ công an các cấp cần phải nâng cao bản lĩnh chính trị, tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức và tinh thần phục vụ nhân dân trên tinh thần quán triệt và thực hiện nghiêm túc cuộc vận động “Xây dựng lực lượng công an nhân dân vì nước quên thân, vì dân phục vụ” và “Công an nhân dân chấp hành nghiêm điều lệnh; xây dựng nếp sống văn hóa vì nhân dân phục vụ” do Đảng ủy Công an Trung ương và lãnh đạo Bộ Công an phát động. Đó thật sự là cuộc chỉnh quân, chỉnh huấn trong toàn lực lượng công an nhân dân nhằm tạo dựng hình ảnh đẹp của lực lượng công an trong mắt người dân. Mặt khác, công tác vận động quần chúng xây dựng mô hình bảo vệ an ninh trật tự cũng phải chú ý đến sự xuất hiện và hoạt động của nhiều tổ chức xã hội nghề nghiệp, như hội nhân đạo từ thiện, các hiệp hội sản xuất, kinh doanh, các hội mang màu sắc tôn giáo, tín ngưỡng... để xây dựng những hình thức, phương pháp vận động phù hợp với trình độ, giới tính, đặc điểm tâm lý của từng đối tượng. Bên cạnh đó, công tác vận động quần chúng cũng phải mở rộng đến đối tượng là người Việt Nam đang sinh sống, làm việc hoạt động ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài đang sinh sống, làm việc ở Việt Nam... Đó là nhân tố bảo đảm huy động được sức mạnh toàn dân trong xây dựng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, góp phần tích cực vào thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./.

------------------------------------------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 142
(2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1979, t. 12, tr. 23
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 335
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 116 
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr. 270
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 233
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 249
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 34
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 47
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 280
(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 236
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 335, 39

Phạm Duy HoàngThượng tá, TS, Trường Cao đẳng An ninh nhân dân II - Bộ Công an