Giá trị soi đường của tác phẩm “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh

07.10.2019

Giá trị soi đường của tác phẩm “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Cách đây 50 năm tác phẩm Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời, dù Bác đã đi đến thế giới của những người hiền, nhưng tác phẩm là Di chúc của Người vẫn nguyên giá trị. Những điều Người để lại trong Di chúc những chỉ dẫn quý báu, động lực tinh thần vô giá giúp toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta vượt qua khó khăn, tận dụng thời cơ, đối diện thách thức để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa phát triển bền vững.

1. Đặt việc nước lên hàng đầu

Trong Di chúc, việc mà người đề cập đến đầu tiên là chỉnh đốn Đảng. Bởi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội cần có sự dẫn dắt của Đảng, cần có Đảng dẫn đường. Đảng có mạnh thì việc nước mới yên, việc xây dựng chỉnh đốn Đảng ngày càng vững mạnh là mục tiêu hàng đầu. Người viết: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”. Người nêu rõ những vấn đề cốt yếu của công tác xây dựng Đảng, đó là: Phải giữ gìn mối đoàn kết trong Đảng, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng phục vụ nhân dân của mỗi cán bộ, đảng viên. Bác cho rằng giữ gìn mối đoàn kết trong Đảng là điều đầu tiên và cốt lõi để cách mạng thắng lợi. Người căn dặn phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình; thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình trên tình đồng chí thương yêu lẫn nhau; đặc biệt chăm lo xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân

 Tác phẩm Di chúc xác định rõ “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Tư tưởng lớn thể hiện tầm nhìn chiến lược và thấm đượm chủ nghĩa nhân văn cộng sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh đó là tư tưởng về con người và phát triển con người ở Việt Nam. Xây dựng, giải phóng và phát triển con người trên cơ sở thực tiễn đó luôn là mục tiêu, là động lực và là một triết lý nhân sinh, triết lý hành động, là thực hành đạo làm người của lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh. Khi có những con người hiểu biết thì mới có thể làm được những việc khác.

Với truyền thống uống nước nhớ nguồn, Người căn dặn phải thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa đối với những người đã vì Tổ quốc mà anh dũng hi sinh và gia đình hậu phương của họ. Không chỉ quan tâm tới việc giúp đỡ cả vật chất và tinh thần cho thương binh, gia đình thương binh, liệt sĩ, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn quan tâm tới cách thức để cho thương binh “có thể dần dần tự lực cánh sinh” và cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ “có công ăn việc làm thích hợp”, để họ tự mình phấn đấu vươn lên, không thụ động và bất lực trước hoàn cảnh khó khăn. Đối với nông dân - một lực lượng đông đảo, động lực lớn của cách mạng, là những người đã góp sức người, sức của cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Người đề nghị miễn thuế một năm sua khi đất nước giành được độc lập để đồng bào phấn khởi đẩy mạnh sản xuất.

Bác cũng đặt hi vọng vào thế hệ trẻ, thế hệ nối tiếp công cuộc xây dựng đất nước. Đối với những người còn trẻ, đã qua rèn luyện, thử thách, có nhiều cống hiến trong lực lượng vũ trang và thanh niên xung phong. Người yêu cầu Đảng, Chính phủ cần chọn một số người ưu tú để “đào tạo họ thành những công nhân và cán bộ tốt, để họ là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội” ở nước ta. Đối với đoàn viên và thanh niên nói chung, Người căn dặn cần phải chăm lo giáo dục “đạo đức cách mạng” cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên” và nhấn mạnh: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. 

Trong những năm qua, thực hiện những lời dạy của Bác, Đảng luôn quan tâm chăm lo bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đảng luôn tin tưởng, phát huy tiềm năng, trí tuệ của thế hệ trẻ, tạo mọi điều kiện để họ cống hiến và trưởng thành. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là một tư tưởng lớn và rất đặc sắc được thể hiện rõ trong Di chúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội không chỉ ở phương diện chính trị, kinh tế mà cả phương diện đạo đức, văn hóa, trong đó đạo đức là cái tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng của Người, trước hết là một chế độ xã hội vì con người, do con người xây dựng nên, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là phải đẩy mạnh phát triển kinh tế và văn hóa để không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp cách mạng lâu dài, khó khăn gian khổ, nặng nề và phức tạp; vừa cải tạo xã hội cũ vừa xây dựng xã hội mới với cả cơ sở hạ tầng, phát triển các ngành kinh tế, sửa đổi chế độ giáo dục, phát triển y tế. Theo Người, để tạo ra một xã hội mới với những cái mới mẻ, tốt đẹp, loại trừ những cái cũ kỹ, hư hỏng thì phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân. Ở đây, Di chúc toát lên tư tưởng trọng dân, lấy dân làm gốc vốn là tư tưởng lớn, xuyên suốt và nhất quán trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Những tư tưởng Người viết về Đảng, về công việc đối với con người, về chủ nghĩa xã hội đã chứa đựng tư tưởng đạo đức mang bản chất cách mạng và nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, việc thực hành đạo đức của Người qua Di chúc làm mỗi người khi đọc Di chúc vô cùng xúc động, cảm phục.

2. Việc riêng của Người cũng vẫn là việc nước

Về việc của bản thân mình, Bác viết “Về việc riêng”, Người không có điều gì phải hối hận, hối tiếc vì đã trọn đời dâng hiến cho dân, cho nước, nâng niu tất cả chỉ quên mình. Người chỉ có một điều tiếc duy nhất là “không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Đây có lẽ là điều gây xúc động mạnh nhất trong Di chúc và qua đó nhân cách Hồ Chí Minh ngời sáng trọn vẹn trong trái tim của mỗi người con đất Việt. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một con người và theo lẽ tự nhiên Người có việc riêng, có cuộc đời riêng tư mà rất nhiều người muốn đặt vấn đề tìm hiểu từ khi Người còn sống. Trong Di chúc, Người viết về việc riêng, nhưng không thổ lộ những điều ấp ủ thầm kín, riêng tư dành riêng cho cá nhân. Điều lớn lao, hàm chứa và toát lên qua từng câu chữ là lòng yêu thương con người, vì con người - những con người đang sống trên trái đất này.

Người ra đi không mang theo gì cho mình. Người để lại tất cả trọn vẹn cho Đảng, cho dân. Người dặn, khi Người mất, “chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”. Đối với thân thể của mình, Người yêu cầu đốt đi để “đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng”, “tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn… trên mộ nên xây một cái nhà đơn giản, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người đến thăm có chỗ nghỉ ngơi”. Ở đây, đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và lòng yêu thương con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện hữu trọn vẹn sáng ngời, có một không hai, từ sinh thời cho đến khi “phải từ biệt thế giới này”.

Phong cách ngôn ngữ Hồ Chí Minh thể hiện trong Di chúc rất đặc sắc, mang phong cách “hiền triết Á Đông” và đậm đà bản sắc dân tộc Việt. Từng câu chữ trong Di chúc đều thể hiện rõ nhận định này. Người viết theo cách dùng chữ ít nhất mà nghĩa nhiều nhất, hàm xúc và cô đọng, sử dụng ngôn từ chính xác và tinh tế có sức lay động đến mỗi trái tim con người. Những dòng di chúc Bác để lại cho ta thấy phong cách của một lãnh tụ có tầm nhìn xa, trông rộng, một tinh thần lạc quan, niềm tin mãnh liệt vào tương lai, vào thắng lợi của cách mạng. Người khẳng định, “Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”. Trong Di chúc, phong cách Hồ Chí Minh còn thể hiện rất rõ, rất tinh tế qua tính chủ động, lo xa, phòng xa, tự chủ với mọi tình huống có thể đưa đến một cách có ý thức sâu sắc. Đọc đoạn Người viết bổ sung năm 1968 “về việc riêng” và đoạn sửa lại trang cuối cùng bản Di chúc vào ngày 10/5/1969 (ngày Người hoàn chỉnh lần cuối cùng bản Di chúc) chúng ta thấy rất rõ điều này.

Sáng rõ tầm nhìn thời đại và vẹn nguyên giá trị định hướng, 50 năm sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa, Di chúc của Người vẫn là những chỉ dẫn quý báu, động lực tinh thần vô giá giúp toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta vượt qua khó khăn, tận dụng thời cơ, đối diện thách thức để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa phát triển bền vững. Trong 50 năm qua, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đã đoàn kết, ra sức phấn đấu thực hiện Di chúc của Người. Cán bộ, đảng viên, nhân dân đã nhận thức sâu sắcvà luôn cố gắng thực hiện  những điều Người dặn dò, gửi gắm là vô cùng hệ trọng đối với sự nghiệp cách mạng và vận mệnh của dân tộc Việt Nam.

Tác phẩm Di chúc có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, nhiều mặt, là kết tinh của tinh hoa văn hóa dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại, là những chỉ dẫn quý báu, nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc và xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Người đã để lại những bài học quý giá cho công tác xây dựng Đảng, xây dựng đổi mới đất nước cho Đảng và nhân dân ta. Dù là thời đại nào cũng phải tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng, tăng cường sự đồng thuận của nhân dân và khối đại đoàn kết dân tộc để nhân lên những thành công, khắc phục yếu kém và khuyết điểm, gạt bỏ những lực cản, tạo động lực mới để phát triển đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

Huỳnh Thạch Hà