Chị Hoa
Trông cử chỉ của chị, tôi đoan chắc, chị không thuộc loại người lười nhác, đễnh đoảng. Có lẽ công việc nặng nhọc của một phụ hồ không phù hợp với người đã có tuổi như chị. Tôi định đến khuyên cậu thợ hồ vài câu dàn hòa thì cũng vừa lúc chị ngửa mặt đưa xô hồ lên cao, chiếc nón lá trật ra sau gáy để lộ khuôn mặt khiến tôi sững lại, nhìn chị trân trối! Lạ chưa! Người đàn bà này là ai mà mới thoạt nhìn đã thấy quen? Hình như mình đã gặp chị ở đâu đó ít ra cũng một đôi lần? Khuôn mặt lúc quen lúc lạ, rất khó nắm bắt. Tôi đang cố lục tìm những hình ảnh nhạt nhòa ngổn ngang trong kí ức thì chị bỗng vô tình xoay mặt đối diện với tôi. Như một tia chớp lóe lên trong tiềm thức, tôi kêu lên thảng thốt:
- Chị Hoa!
Dũng quay sang tôi hỏi nhỏ:Nghe gọi đúng tên mình, người đàn bà phụ hồ ngẩng mặt nhìn tôi, lúc đầu soi mói, tiếp đến lộ vẻ ngạc nhiên, rồi… cúi mặt tiếp tục công việc.
- Cậu cũng biết cô Hoa?
Tôi vừa lôi Dũng đi, vừa nói:
- Quen từ hồi còn chiến tranh anh à, ngay trên quê hương chị. Mà sao chị lại lên tận đây kiếm sống bằng cái nghề nặng nhọc nầy?
Dũng giải thích:
- Hồi đầu tháng trước, mình gặp cô Hoa đi lang thang tìm việc dưới phố huyện. Thấy cô chất phác hiền lành, tôi có cảm tình ngay nên mời cô về nhờ giúp việc nhà cửa, cơm nước. Nhưng nghĩ sao cô lại từ chối. Tôi phải gửi cô cho gã thầu khoán, bảo nó bố trí một việc gì đó nhẹ nhàng, giúp chị có công việc làm. Ai ngờ nó lại bắt cô làm phụ hồ!
Hết buổi, thừa lúc bạn thợ rửa ráy chuẩn bị cơm chiều, tôi tranh thủ tìm gặp chị Hoa. Đi quanh quẩn một lúc, thấy chị đang ngồi cọ rửa bàn chà thước thợ cạnh gốc sồi già. Tôi khẽ khàng bước đến bên chị với tâm trạng của người có lỗi:
- Chị Hoa!
Chị dừng tay, ngẩng mặt lên nhìn tôi một lúc, mắt chơm chớp. Rồi chị cất giọng run run:
- Cậu Thạch! Đúng không? Tưởng không bao giờ còn gặp lại cậu nữa. Lâu quá!
- Hơn phần ba thế kỷ rồi chị!
Nói đến đây, cổ họng tôi bỗng dưng nghẹn cứng. Từ trong sâu thẳm bỗng nhói lên một chút gì xót xa khiến tôi tự rủa thầm: “Đồ vô ơn bạc nghĩa”.
Chị Hoa buông tiếng thở dài. Mắt nhìn tận đâu đâu…
Cách đây gần bốn mươi năm, vào thời điểm cuộc chiến đang diễn ra khốc liệt trên toàn miền Nam.
Một buổi chiều, trên đường trở về đơn vị sau khi hoàn thành chuyến công tác đặc biệt, tôi dừng chân tạm nghỉ qua đêm trong một ngôi làng nhỏ thuộc vùng chiến khu Đông. Làng nằm phía bên nầy con sông Hà cũng là nơi giáp ranh với cửa ngõ ra vào thị xã. Với vị trí chiến lược quan trọng nên địch - ta, phe nào cũng tranh quyền kiểm soát. Thỉnh thoảng lực lượng bảo an được trọng pháo từ trên các chi khu yểm trợ mở những trận càn quét, biến ngôi làng nằm ven sông Hà xinh đẹp thành bãi chiến trường. Để tránh bom rơi đạn lạc, dân làng phải đi sơ tán: người ra khu an toàn, kẻ ngược lên phố huyện. Chỉ có lực lượng thanh niên cờ đỏ địa phương là “một tấc không đi, một ly không rời”. Họ quyết bám trụ, vừa giữ đất giữ làng, vừa tăng gia sản xuất lấy lương thực nuôi quân, nuôi cán bộ. Địch đến, họ ẩn. Địch vừa rút lui, họ xuất hiện ngay phía sau lưng. Địch cắm chốt, họ liên tục quấy phá khiến chúng mất ăn mất ngủ, cuối cùng cũng phải cuốn xéo.
Người lãnh nhiệm vụ lo việc ăn ở cho tôi trong buổi chiều hôm đó chính là chị Hoa, một thành viên của lực lượng xuất quỷ nhập thần nầy.
Chị Hoa (bạn bè gọi chị là Hoa Đỏ) còn rất trẻ, khoảng 21, 22 tuổi, mái tóc đen búi ngược để hở cái cổ cao trắng ngần, khuôn mặt toát lên nét đẹp dịu dàng đằm thắm đến nao lòng.
Biết tôi vừa mới hoàn thành chuyến công tác đầy khó khăn nguy hiểm, chị Hoa tiếp tôi rất ân cần niềm nở từ việc ăn uống đến chỗ nghỉ ngơi. Chị dành riêng cho tôi căn buồng nhỏ duy nhất còn sót lại từ ngôi nhà lá mái 5 gian của chị vừa bị pháo đánh sập. Mẹ con chị ở chái bếp phía sau. Chị căn dặn tôi phải xuống hầm trú ẩn ngay bên cạnh mỗi khi nghe tiếng ca nông đề pa. Rất cảm ơn cuộc đời luôn dành cho tôi những người chị xinh đẹp và nhân hậu.
Tuy đang sống trên vùng tranh chấp đầy bất trắc nhưng chị rất tin tưởng, lạc quan. Nhất là bé Phúc, niềm hạnh phúc duy nhất của chị vẫn hồng hào, khỏe mạnh, dễ thương đến kỳ lạ, y như hạt mầm khỏe chắc cứ thản nhiên vươn lên từ mặt đất chai sần bỏng rộp. Kiệt tác của đấng toàn năng, hiện thân của một thiên thần bé bỏng cứ với với đôi cánh tay bụ bẫm về phía tôi, miệng luôn nhoẻn nụ cười. Bế thằng bé vào lòng giữa buổi chiều quê đang nồng thuốc súng bỗng nhói lên trong tôi một niềm xúc cảm rất khó tả và thấy trách nhiệm to lớn đang đè nặng lên vai thế hệ chúng tôi, thế hệ người lính đang chiến đấu vì độc lập tự do, vì thế giới ngày mai hòa bình hạnh phúc.
Ngay buổi tối hôm đó, giữa khoảng lặng của chiến tranh, chị xã đội trưởng du kích cho tôi biết đôi nét khái quát về Hoa Đỏ, người phụ nữ vùng chiến khu Đông thông minh, nhân hậu nhưng kiên cường, dũng cảm.
Chị Hoa mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, ngoài chồng con ra, chị không còn ai là họ hàng thân thích. Chồng chị đi lính bảo an đóng trên phố huyện. Anh được cơ sở binh vận móc nối và bí mật bố trí làm tài xế riêng cho tên đại úy đồn trưởng để theo dõi tình hình và báo cáo kịp thời mọi âm mưu và những hoạt động của đối phương. Để địch tin tưởng và anh yên tâm hoàn thành nhiệm vụ đặc biệt của một điệp báo viên, tổ chức dàn dựng kịch bản cho anh công khai ly dị vợ với lý do chị ngoại tình, có con riêng. Nhờ những thông tin chính xác do anh cung cấp, bộ đội địa phương từng bẻ gãy nhiều trận càn lớn của địch. Trước ngày ở cữ, lãnh đạo xã bố trí giúp chị ra an toàn khu để tiện việc sinh nở. Do lần đầu chưa có kinh nghiệm nên dẫn đến việc thằng bé chào đời sớm hơn dự tính ngay trên mảnh đất đã sinh ra chị, sau trận càn của lính bảo an. Chị đặt tên con là Phúc. Sinh nở xong, nhằm lúc mặt trận khu Đông diễn ra hết sức căng thẳng, lãnh đạo phụ nữ xã lại giục chị đi sơ tán do có con mọn, nhưng chị một mực xin được ở lại. Trên cái xã trắng tiền tiêu ngày nào cũng có bom rơi đạn nổ, ranh giới tử sinh chỉ là đường tơ kẽ tóc mà có mỗi mình chị là y tá. Chị không thể xa rời bạn bè đồng đội trong lúc nầy để tìm lấy sự bình yên cho riêng mình.
Đêm hôm đó, tôi không thể nào ngủ được. Cứ day dứt, trăn trở nghĩ về cuộc chiến tranh quá nhiều hy sinh mất mát, về số phận những đứa bé sinh nhầm thế kỷ, về những người phụ nữ như chị Hoa đang ngày đêm lặng lẽ hy sinh, cống hiến, chịu đựng…
Biết tôi khó ngủ, chị Hoa lục trong túi thuốc của chị lấy ra một viên màu hồng đưa cho tôi, bảo là thuốc an thần liều nhẹ, uống vào sẽ chóng ngủ ngon, lấy sức ngày mai đi tiếp. Nhờ viên thuốc chị đưa, đã lâu lắm tôi mới có được giấc ngủ bình yên thanh thản, đầy mộng đẹp ngay trên mảnh đất đang sặc mùi chinh chiến.
Sáng hôm sau, chị đánh thức tôi dậy:
- Cậu Thạch! Dậy mau. Bọn thủy quân lục chiến đi càn, xe tăng vào đến bìa làng rồi!
Tôi ngồi bật dậy, tỉnh hẳn, chụp vội túi đựng tài liệu rồi lập tức rời khỏi vị trí. Chị giục:
- Cậu ra hầm bí mật ngay!
Lúc đi ngang qua chỗ bé Phúc, thấy cháu đang say sưa trong giấc ngủ, nét mặt hồn nhiên thánh thiện, trên môi còn đọng nụ cười. Định giúp chị đưa thằng bé ra theo, chị vội ngăn lại:
- Cứ để cháu đó cho tôi.
Rồi chị quay lại tiếp tục lục tìm thứ gì đó trong túi thuốc, nét mặt lộ vẻ căng thẳng lo âu. Thấy tôi còn đứng lóng ngóng, chị thúc:
- Nhanh lên kẻo không kịp!
Thú thực, tôi là người lính từng xông pha trận mạc, từng chỉ huy một đơn vị tác chiến, vậy mà lúc nầy đây, tôi phải răm rắp tuân theo mệnh lệnh của một nữ du kích địa phương.
Rời khỏi chỗ ở chưa đầy mươi bước đã nghe tiếng xe tăng gầm gừ từ phía cuối làng. Một tràng tiểu liên xé toạc màn sương sớm. Tôi nóng ruột quay lại nói như quát:
- Chị đưa cháu ra hầm ngay. Bọn lính bắt gặp chị là gay go lắm đấy!
Nói xong, tôi bế xốc cháu Phúc chạy thẳng ra phía bờ sông, nơi có hầm bí mật kiên cố. Chị cũng chạy theo tôi bén gót.
Trong căn hầm rộng chưa đầy thước vuông lờ nhờ ánh sáng từ các lỗ thông hơi, người thiếu phụ bế con ngồi lặng lẽ, nét mặt lộ vẻ lo lắng đăm chiêu. Còn tôi, tôi đang phát huy hết khả năng thính giác để xác định hướng chuyển quân của địch. Trên mặt đất, tiếng gầm rú của xe tăng mỗi lúc một gần. Đại liên, trung liên, AR15 thi nhau nổ giòn giã, cây cối gãy đổ rào rào. Một lúc lâu sau, tiếng súng thưa dần, chỉ còn nghe tiếng động cơ xe tăng nổ đều, rất gần. Nghe cả tiếng máy bộ đàm nữa. Hình như chúng đang chuẩn bị cắm chốt tại đây? Đang nhận định tình hình địch thì thằng bé bỗng ré lên, tay chân nó quẫy đạp liên hồi. Chị Ba lính quýnh nâng con lên áp miệng nó vào núm vú, nửa như vỗ về, nửa như kìm hãm tiếng khóc có thể gây ra điều chẳng lành. Thằng bé chưa đầy tám tháng tuổi làm sao chịu nổi không khí ẩm thấp, bức bối trong căn hầm chật chội. Phản ứng bản năng của cháu bé trong lúc nầy là cực kỳ nguy hiểm, sẽ dẫn đến cái chết. Một giọng nói ồm ồm từ mặt đất vẳng xuống làm tôi nổi da gà, toát mồ hôi hột:
- Tụi bay xăm thật kỹ. Đứa nào phát hiện ra hầm bí mật sẽ được thưởng một chầu la de. Nếu bắt được Việt Cộng sẽ bao thêm em út.
Lệnh ban ra, mặt đất bỗng nổi lên tiếng rào rào như đàn vịt di chuyển. Qua lớp đất dày, tôi hình dung ra những gương mặt lầm lì dữ tợn đang dùng lưỡi lê nhọn hoắc xới lên từng tấc đất vốn đã bị băm nát bởi pháo chụp, bom bi. Chợt lóe lên trong tôi một thóang nghi ngờ: Chắc có kẻ chỉ điểm? Tôi lại tự trấn an: Nếu có kẻ phản bội, bọn chúng chỉ cần đến lật miệng hầm lên là xong, hà cớ gì phải sục sạo tìm kiếm cho mất công? Trong lúc thần kinh đang căng thẳng tột độ thì bé Phúc lại khóc ré lên, tay chân quẫy đạp như cố bức khỏi vòng tay của mẹ. Theo phản ứng tự nhiên, tôi xoay người lại định rút khăn tay ra chẹn mồm nó lại. Nhưng chị Hoa lại nhanh hơn, chị vén cao vạt áo nhét vội bầu vú căng tròn vào mồm con rồi ôm chặt nó vào lòng. Thằng bé nhây nhây vú mẹ, mồm khặc khặc một lúc rồi ngủ yên. Nếu tình hình cứ tiếp tục tái diễn, chắc chắn địch sẽ phát hiện. Tôi hy sinh đã đành. Tài liệu rơi vào tay giặc sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường! Còn chị Hoa nữa, nếu không may rơi vào tay bọn lính dâm ác… Tôi rùng mình không dám nghĩ tiếp. Bỗng trong tôi lóe lên ánh chớp: Thuốc an thần! Chỉ cần một liều nhỏ cháu bé sẽ ngủ yên. Là y tá, tại sao chị không nghĩ ra điều nầy nhỉ? Nhưng trông thấy thằng bé đang ngon giấc trong vòng tay mẹ, tôi thở phào nhẹ nhỏm. Lạy trời, thằng bé no sữa đã ngủ ngon. Chúng tôi tiếp tục rơi vào sự yên lặng đầy bất trắc, mắt căng tròn dán chặt lên nóc hầm, dõi theo từng diễn biến của địch trên mặt đất bằng khả năng thính giác. Không biết chúng tôi đã ngồi như thế trong bao lâu, có lẽ lâu lắm, rất lâu. Một giọng nữ quen thuộc vang lên ngay phía trên đầu:
- Chị Hoa ơi! Bọn chúng rút rồi.
Tôi vội nhỏm dậy giục chị nhanh chóng ra khỏi miệng hầm. Chị vẫn bế con ngồi bất động. Lúc ấy, linh tính mách bảo cho tôi biết có một việc hệ trọng đang xảy ra. Tôi vội cúi xuống giật lấy thằng bé từ trên tay chị vọt thẳng lên miệng hầm. Trời ơi! Bé Phúc lúc nầy chỉ là cái xác, mặt mũi tím tái vì ngạt thở. Bàng hoàng, thảng thốt! Tôi bế cháu đứng lặng... Đồng đội của chị giúp tôi đưa cháu vào nhà, đặt lên chiếc chõng tre, nơi mà mới vừa sáng đó thôi, nó say sưa trong giấc ngủ trẻ thơ. Chị Hoa được các bạn dìu lên khỏi miệng hầm trong tình trạng bất tỉnh nhân sự. Chị em lo xoa dầu, lay gọi. Một lúc sau, chị dần dần hồi tỉnh. Sực nhớ ra bé Phúc, chị lao vào xác đứa con của mình chứa chan nước mắt. Bé Phúc ra đi là sự mất mát lớn của chị, của đội nữ du kích vùng chiến khu Đông. Bùi ngùi, lặng lẽ, họ tiễn đưa một thiên thần bé bỏng trở về với chúa giữa buổi chiều thê lương! Lúc nầy tôi mới hiểu ra: Viên thuốc an thần chị cho tôi tối hôm trước là viên cuối cùng mà chính chị cũng không nhớ! Sự ra đi của cháu Phúc như một huyền thoại đẫm chất bi ca!
Buổi chiều hôm đó, trước khi trở ra đơn vị, đứng bên nấm mồ nhỏ nhoi trên doi đất bồi ven dòng sông Hà vừa mới đắp xong của cháu Phúc tôi hứa với chị rằng, sẽ sống xứng đáng với lòng hy sinh cao quí của chị, với sự ra đi của cháu Phúc. Sẽ trở lại tìm chị ngay sau khi kết thúc chiến tranh...
Từ buổi đó, đã hơn một phần tư thế kỷ trôi qua, tôi chưa về thăm mảnh đất nằm dọc dòng sông Hà, chưa tìm đến thăm chị. Ký ức về một buổi chiều quê đau thương mất mát của thời xa lắc đã bị thời gian xóa nhòa!
Vậy mà hôm nay, tình cờ gặp lại chị trên vùng đất Tây Nguyên mù sương heo hút. Thời gian và nỗi vất vả trong cuộc mưu sinh tuy đã làm cho người chị gầy nhom, vẻ mặt già nua khắc khổ nhưng vẫn còn phản phất nét đẹp ấm áp dịu dàng của thời Hoa Đỏ trẻ trung. Tôi vô tình khuyên chị:
- Ở tuổi chị cần phải có thời gian nghỉ ngơi thanh thản. Khoản trợ cấp hoặc lương hưu của anh chị kết hợp với khoản thu nhập nhờ vào ruộng vườn đủ giúp chị có cuộc sống ổn định. Việc phụ hồ nặng nhọc lắm, chị không kham nổi đâu!
Chị dừng tay quay sang tôi, hỏi:
- Khoản trợ cấp nào? Tôi làm gì có lương hưu?
Tôi trả lời thản nhiên:
- Khoản trợ cấp dành cho những người có công với kháng chiến.
- Tưởng gì chớ hồi đó tôi chỉ là du kích thôn làng. Có công trạng gì to lớn đâu mà được hưởng trợ cấp của chính phủ?
- Còn chồng chị? Anh ấy là cán bộ điệp báo của ta?
Chị đáp:
- Anh ấy bị du kích xã trên bắn chết năm 1974!
Tôi rất ngạc nhiên sau câu trả lời của chị. Định hỏi, chị tiếp tục giải thích:
- Hôm đó, anh được lệnh của cơ sở binh vận phải dụ cho được tên đại úy đồn trưởng ra quán thịt chó cuối thị trấn B để du kích trừ khử. Khốn thay, chồng tôi cao to, trắng trẻo. Tên đồn trưởng nghiện ngập nên ốm gầy đen điu. Sự đối nghịch nghiệt ngã dẫn đến việc anh ấy bị bắn nhầm, tên đồn trưởng may mắn thoát chết. Ngay buổi sáng hôm sau, đám tang của anh được chúng tổ chức trọng thể, có thiếu tá Chi khu trưởng đến đọc điếu văn. Mặc nhiên chồng tôi trở thành tử sĩ, được truy phong thêm bậc. Chị bỗng thở dài hắt ra nỗi trái ngang cay nghiệt - Sau ngày giải phóng, tôi mang tiếng là vợ hạ sĩ quan ngụy, là người đàn bà ngoại tình, là người mẹ nhẫn tâm bóp chết con mình trong hầm bí mật để được sống.
- Oan nghiệt! Tôi nói giọng run run - Tại sao chị không làm đơn nhờ những người có liên quan xác nhận? Hiện nay Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến những người có công trong kháng chiến?
Chị cúi mặt như để che giấu những giọt nước mắt:
- Sau chiến tranh tất cả đều đã thay đổi! Cơ sở binh vận đã giải thể hồi còn chiến tranh. Biết cậy nhờ ai?
Và như để giải tỏa nỗi niềm, chị tâm sự với giọng buồn:
- Hồi còn chiến tranh, bom đạn vung vãi đầy trời, sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc, vậy mà chúng tôi vẫn bám đất giữ làng, tình người ấm áp lắm. Sau ngày giải phóng, xóm làng bình yên, tôi phải bỏ xứ ra đi tha phương cầu thực vì không chịu nổi những lời mỉa mai cay độc từ miệng người đời. Vào Khánh Hòa giữ trẻ, ra Phú Yên gặt thuê, lên Đắc Lắc hái cà phê... Lạy trời, hồi đó còn sức để đổi lấy bát cơm. Vài năm đổ lại đây, lực bất tòng tâm cậu à... Giọng chị nghèn nghẹn - Đôi lúc nhớ quê lắm, nhưng chẳng dám về. Mà nếu có cũng chỉ trong thoáng chốc. Chủ yếu là viếng mộ thằng Phúc. Chị đưa tay gạt mấy giọt nước mắt.
Lúc này, trước chị, tôi thấy mình nhỏ nhoi và ích kỷ, không xứng đáng để chị san sẻ nỗi niềm uẩn khúc của đời chị.
Về nhà Dũng, tôi đem chuyện chị Hoa kể hết cho anh nghe. Dũng cứ suýt xoa thở dài và trách tôi vô tâm.
Đêm, hình ảnh của chị Hoa và bé Phúc trên một miền quê sặc mùi chinh chiến cứ ám ảnh khiến tôi trăn trở, day dứt và luôn tự trách mình. Giường phía bên kia thi thoảng lại có tiếng thở dài. Hình như Dũng cũng không ngủ được. Khoảng nửa đêm về sáng, giọng Dũng tỉnh rụi:
- Không ngủ được thì dậy uống tách trà cho ấm bụng.
Chỉ đợi có thế, tôi ngồi bật dậy, mở đèn. Dũng loay hoay súc ấm pha trà. Quả thực tách trà sớm đã làm cho tôi tươi tỉnh. Đến tách thứ ba, Dũng nâng lên nhắp một ngụm rồi đặt xuống, ngẫm ngợi một lúc, nói giọng nghiêm túc:
- Thạch này, tôi nhờ cậu giúp cho một việc. Chỉ có cậu mới giúp được thôi.
Chắc là anh muốn nhắc lại việc nhờ tôi tìm hộ khu đất trên thành phố quê tôi để xây cất đại lý cà phê Tây Nguyên. Tôi khoát tay bảo:
- Anh cứ thư thả đã. Chờ hạ cơn sốt đất...
Dũng vội ngắt lời:
- Không phải việc ấy. Việc khác, quan trọng hơn!
Anh ta muốn mua cả một hòn đảo chắc, tôi nghĩ thế? Dũng hạ giọng vòng vo vào đề:
- Cậu biết đấy. Nhà tôi mất gần mười năm, để lại ba con nhỏ. Đến nay, đứa nào cũng thành đạt. Những năm gần đây, tôi cứ tất bật công việc làm ăn, việc nhà cửa cơm nước đôi lúc cũng phải tự biên tự diễn. Thấy tôi vất vả, các cháu khuyên tôi phải lấy vợ kế để có người quán xuyến công việc nhà cửa, nương nhờ vào nhau những lúc ốm đau. Con chăm cha không bằng bà chăm ông mà. Nghe trẻ nói cũng có lý. Sau nhiều đêm suy nghĩ, tôi cũng để mắt tìm người hiền thục giúp nhau trong tuổi già. Nhưng tìm mãi chưa thấy người vừa ý. Tình cờ gặp cô Hoa, thấy cô hiền lành phúc hậu, lại có vẻ hiểu đời nên tôi quí lắm. Qua cậu, tôi được biết thêm số phận nghiệt ngã của Hoa khiến tôi càng nể phục. Chỉ có cậu mới giúp tôi nói hộ với cô ấy một lời.
Tôi rất bất ngờ trước lời đề nghị của Dũng. Để đo thêm mức độ tình cảm của anh dành cho chị, tôi hỏi:
- Tình cảm của anh xuất phát từ lòng thương hại?
Dũng thề thốt:
- Tôi xin thề, mình rất quý Hoa ngay từ ngày mới gặp trên phố huyện. Cậu phải tin mình chứ!
Rất mừng cho chị, những năm tháng cuối đời chị sẽ đỡ nhọc nhằn vất vả.
Mặc dù trời còn đầy sương sớm, tôi lấy xe đến chỗ làm của chị Hoa mời chị sang nhà Dũng dùng bữa sáng, sau đó lựa lời ướm hỏi. Nhưng khi đến nơi, người quản công cho biết, chị Hoa đã xin thôi việc và ra đi từ chiều hôm trước.
Tôi đứng lặng, nước mắt rơm rớm.
Chị Hoa ơi! Tôi là đứa vô ơn bạc nghĩa, cả đời không làm nên danh phận. Được sống đến ngày hôm nay là nhờ sự hy sinh của đồng đội, của chị, của cháu Phúc. Dù phải lặn lội đầu non cuối bãi, tôi cũng phải tìm cho được chị, và giúp chị đòi lại sự công bằng, đưa chị về lại nơi mà chị đã hy sinh cả tuổi thanh xuân tay bế con thơ, tay chống giặc giữ làng.
(baovannghe.com.vn)