Tính cách người Quảng qua giao tiếp, ứng xử
Điều đầu tiên phải nhìn nhận là người Quảng Nam có một hạn chế lớn trong giao tiếp, đó là cách nói cộc lốc mà người ta thường gọi là “ăn cục nói hòn”. Kiểu nói cộc lốc xuất phát từ thói quen vội vàng, tất bật của những người thường xuyên đối mặt với điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, phải tất bật mưu sinh, thêm vào đó là vì tính cách nóng nảy, thiếu mềm dẻo, ương ngạnh mà ra.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, người Quảng Nam thường hay tranh luận, không phải vì họ thích lý sự mà xuất phát từ bản tính cương trực thẳng thắn, không chấp nhận những điều chưa rõ ràng. Tuy vậy, cũng có khi người Quảng cãi nhau từ những việc không đâu vào đâu, có lúc chưa hẳn cãi đúng nhưng vẫn cố cãi cho được, theo kiểu “cãi chày cãi cối”. Rồi cũng vì tính cương cường, háo thắng trong tranh luận nên đến khi đuối lý có người nổi nóng đùng đùng.
Mặc dù nóng tính nhưng người Quảng Nam lại được nhìn nhận là có tính thân thiện và hiếu khách. Trong tác phẩm Xứ Đàng Trong, linh mục Cristoforo Borri, người đã sống và truyền giáo 5 năm ở vùng Quảng Nam - Đà Nẵng và Quy Nhơn, nhận xét như sau: Về bản chất, người Đàng Trong cư xử với người Âu châu nhã nhặn và lịch sự, dù tự tôn của họ rất cao... ở Đàng Trong, dân chúng đến bắt chuyện với chúng tôi từng đám đông… mời chúng tôi ăn uống và đối xử với chúng tôi muôn vàn lịch thiệp, gần gũi và văn minh. Đó là những trải nghiệm đã xảy đến với tôi và các bạn hữu; chỉ vừa bước chân vào nhà họ, chúng tôi đã được coi như bạn bè quen biết từ lâu.
Về lòng tự tôn, tự trọng của người Quảng, lịch sử còn ghi sự kiện năm 1882 quân Pháp tấn công thành Hà Nội, Tổng đốc Hoàng Diệu kháng lại lệnh đầu hàng của triều đình, ngài đã lãnh đạo quân dân Hà thành chống trả quân Pháp. Khi tình thế không thể giữ thành, ngài ra lệnh cho tướng sĩ giải tán để tránh thêm thương vong rồi tự ải chết tại Võ miếu chứ không để bị rơi vào tay giặc. Hoàng Diệu được nhân dân thủ đô tôn kính thờ phụng không chỉ vì tài năng và sự hy sinh anh dũng, mà còn vì đức độ thanh liêm, chính trực; cùng với đó là câu chuyện Tổng đốc Hoàng Diệu gửi lụa về biếu mẹ, bà mẹ không chịu nhận, tuy không la rầy nhưng đã ứng xử rất tế nhị mà nghiêm khắc, bà gửi trả tấm lụa kèm theo một cành roi dâu để răn ngài không được nhận quà biếu của nhân dân.
Với Hiệp biện Đại học sĩ Phạm Phú Thứ, có lẽ nhiều người biết đến con đường làm quan đầy trắc trở của ông bởi tính khí cương trực dám nói thẳng với vua. Sách Đại Nam thực lục có ghi: “Năm 1850, thấy vua Tự Đức ham vui, lơ là việc triều chính, ông dâng sớ can gián: Lễ ở sân lớn ít thấy chầu hầu;vui ở vườn trong liền ngày đàn sáo. Kinh diên lâu không tiến giảng; triều thần lâu chẳng ban hỏi; các quan ở phủ, huyện bốn phương, lâu không được hỏi đến…Vua cho là câu nói quá khích, răn dụ mà không bắt tội”. Ông bị giáng chức làm “Thừa nông dịch”, đến năm 1852 mới được khôi phục hàm Biên tu. Bị giáng chức một lần ông vẫn không hề sợ, vẫn tiếp tục thẳng thắn thực hiện chức trách của mình để rồi lại bị giáng chức lần thứ 2 vào năm 1873.
Sống ở vùng đất phên giậu từ thời nhà Hồ lấy đất Chiêm Động, Cổ Lũy, rồi đến thời vua Lê Thánh Tông lập thừa tuyên Quảng Nam, người Quảng phải đối mặt với những hiểm nguy, gian nan của người đi mở đất và trấn giữ vùng biên viễn, từ đó đã hình thành tính cách gan dạ, quả cảm và ứng biến nhanh với hoàn cảnh.
Năm 1906, chí sĩ Phan Châu Trinh sang Nhật Bản để tìm hiểu công cuộc duy tân của nước Nhật. Trong bài viết “Vụ xin xâu ở Quảng Nam” trong tập Phan Khôi di cảo có ghi lại một tình tiết bộc lộ tính cách rất Quảng Nam của Phan chí sĩ: Từ Nhật Bản, Phan Châu Trinh về Hà Nội rồi vào Huế, khi nghe tin Khâm sứ có mật nã, ông nói “Có thật thế thì tôi đi ngay qua Khâm sứ tôi hỏi”. Rồi ông đi thật. Hỏi thì Khâm sứ chối nói không có mật nã. Cuối cùng, với tư cách cá nhân, Khâm sứ hỏi có phải ông đi Nhật về không, ông trả lời là có và kể một vài chuyện ở Nhật. Về sau có người hỏi ông sao dám khai với Khâm sứ là đã đi Nhật, ông trả lời “Nó đã lấy danh nghĩa cá nhân hỏi mình mà mình còn không nhận thì mình hèn quá. Vả lại đi Nhật Bổn chưa phải là tội, huống chi việc đó nó đã biết thừa rồi, còn giấu làm chi”. Ứng xử như Phan Châu Trinh trong tình huống đó quả là thẳng thắn, gan dạ và ứng biến cơ trí.
Về cái tính nói thẳng, không kiêng dè sợ sệt của người Quảng, trong tập sách “Tôi với thầy tôi - Phan Khôi”, Phan An Sa viết về chuyện Phan Khôi làm thư ký cho hãng buôn của Bạch Thái Bưởi ở Hải Phòng năm 1920: lúc mới vào làm, thấy ông chủ họ Bạch nhiều khi cư xử, ăn nói thô lỗ với người làm, Phan Khôi có lần đã nói với ông ta rằng mình không chịu nhục được, phải liệu mà cư xử với nhau, không sẽ sanh chuyện chẳng lành. Vậy là suốt thời gian Phan Khôi làm ở công ty Bạch Thái, ông chủ không hề nói với ông một tiếng nặng.
Trong giao tiếp, ứng xử, mặc dù người Quảng thường trực tính có khi đến mức cực đoan, nhưng có lúc vẫn thể hiện sự lịch thiệp, sâu sắc. Tiêu biểu cho tính cách ấy là bà Nguyễn Thị Bình, nhà ngoại giao kiệt xuất của đất nước. Trong hồi ký “Gia đình, bạn bè và đất nước” có đoạn viết về thời gian bà tham dự Hội đàm Paris, có nhà báo hỏi: “Bà có phải là đảng viên Đảng cộng sản không?”, bà trả lời: “Tôi là người yêu nước, đảng tôi là đảng yêu nước”. Một số nhà báo thường hỏi: “Có quân đội miền Bắc ở miền Nam Việt Nam không?”, bà trả lời: “Dân tộc Việt Nam là một, người Việt Nam ở Bắc cũng như ở Nam đều có nghĩa vụ chiến đấu chống xâm lược”… Có nhà báo nhận xét, tên bà là Bình - Hòa Bình nhưng bà chỉ nói về chiến tranh, bà đáp: “Tôi có thể nói gì khác là lên án cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ và cuộc chiến đấu vì hòa bình và độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam”…
Người Quảng Nam có tính thật tình, không khách sáo, không câu nệ lễ nghi cho lắm. Đến nhà người thân hay bạn bè, nếu đang giữa bữa cơm thì không bao giờ chủ nhà mời khách ăn cơm, nếu là khách quan trọng, chủ nhà sẽ bỏ dỡ bữa cơm ra tiếp khách, còn thông thường thì chỉ nói: “Anh ngồi chơi uống nước chờ tui chút”, nếu là chỗ thân tình thì gọn hơn: “Ngồi uống nước chờ tui chút”. Trường hợp mới bắt đầu ăn thì mời khách một cách thật lòng: “Gặp bữa, mời anh ăn cơm với tui cho vui”. Khách có thể nhận lời, ngồi vào bàn ăn tự nhiên, hoặc nếu từ chối chủ nhà cũng không mời ép, mời đưa. Khi gặp người quen đi ngang nhà, người miền Bắc thường chào “Mời bác vào xơi nước”; với người Quảng thì khác, lịch sự một chút sẽ chào: “Anh/chị đi mô rứa?” còn thân tình, suồng sả thì: “Đi mô rứa mi?”.
Trong giao tiếp, có khi người Quảng Nam biểu lộ tính cách chương chướng của mình, không phải vì ác cảm với người đối thoại mà chỉ vì cái tính... chướng. Thay vì trả lời câu hỏi của người khác thì đáp lại bằng một câu hỏi với hàm ý một câu trả lời. Có lần tôi về quê, buổi sáng chạy tập thể dục ngoài đường thì gặp một ông hàng xóm, tôi bèn chào xã giao “Chào chú, chú ra đồng hả?”, ông hàng xóm đáp lại chua lè: “Chớ còn đi đâu nữa, mi hông thấy tau doác cuốc đây reng?”, rồi ông lại dịu giọng hỏi lại: “Mi mới dề chiều hôm qua hở con?”, tôi định bụng trả lời ông theo kiểu Quảng Nam nhưng không dám, lạng quạng bị cốc u đầu…
(baodanang.vn)