Tâm sự của Danh sĩ Hà Đình trong “Buổi tối dạo chơi ở vịnh Đà Nẵng” - Châu Yến Loan

24.12.2014

Tâm sự của Danh sĩ Hà Đình trong “Buổi tối  dạo chơi ở vịnh Đà Nẵng” -  Châu Yến Loan

Hà Đình Nguyễn Thuật, một danh thần của triều Nguyễn, và cũng là một nhà thơ nhà văn lớn thời cận đại. Ông đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ, trong đó một số bài bộc lộ nỗi đau buồn của ông trước cảnh nước nhà bị Pháp xâm lược. Bài thơ “Trà Úc dạ phiếm”(Buổi tối  dạo chơi ở Trà Úc) đã thể hiện tấm lòng của ông đối với đất nước.

 
 

Ông có tên là Nguyễn Công Nghệ, sau đổi là Nguyễn Thuật, tự là Hiếu Sinh, hiệu là Hà Đình, sinh ngày 13 tháng 5 năm Nhâm Dần (1842) tại làng Hà Lam, huyện Lễ Dương, phủ Thăng Hoa, trấn Quảng Nam (nay là thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam).

Ông xuất thân trong một gia đình Nho học có truyền thống yêu nước, là con trai thứ của ông Nguyễn Đạo và bà Võ Thị Tại, em của Sơn phòng sứ, Đốc học Quảng Nam Nguyễn Tạo, anh của Tán tương quân vụ Nghĩa hội Quảng Nam Nguyễn Duật.

Thủy tổ là cụ Nguyễn Công Châu, nguyên quán xã Bình Luật, phủ Thạch Hà, trấn Nghệ An. Khoảng thời Lê Thánh Tông (1471) vào khai khẩn rồi định cư tại xã Hà Lam, huyện Lễ Dương, phủ Thăng Hoa, đạo Thừa tuyên Quảng Nam.

 

Thuở nhỏ, Nguyễn Thuật học tại nhà, sau học tại trường Huấn huyện Thăng Bình rồi trường Đốc Thanh Chiêm. Năm Tự Đức thứ 20 (1867), ông thi đỗ Cử nhân; năm sau, đỗ Phó bảng. Ban đầu, ông được bổ làm Biên tu sung Hàn lâm viện nội các, rồi thăng làm Giáo đạo Dưỡng Thiện đường, dạy các hoàng tử.

Năm Tự Đức thứ 34 (1881), Nguyễn Thuật được thăng hàm Tham tá các vụ, lãnh Bộ Hộ thị lang, rồi được làm Chánh sứ sang Trung Quốc. Đến khi về nước, ông được thăng hàm Tham tri.

Năm Tự Đức thứ 36 (1883), ông lại được cử làm Phó sứ để cùng Chánh sứ Phạm Thận Duật sang Thiên Tân (Trung Quốc) bàn việc hội thương, nhưng không thành công, ông trở về nước, lúc này vua Tự Đức đã băng hà (tháng 7 năm 1883)

Năm Giáp Thân (1884) ông được vua Kiến Phúc bổ làm Tuần vũ Thanh Hóa. Cũng trong năm này, ông được cử làm Chánh chủ khảo kỳ thi Hội.

Tháng 5 năm Ất Dậu (tháng 7 năm 1885), quân Pháp chiếm Kinh thành Huế, vua Hàm Nghi xuất bôn ra Quảng Trị ban dụ Cần Vương; anh em của Nguyễn Thuật tham gia Nghĩa hội ở Quảng Nam bị Pháp bắt, ông xin trả lại quan hàm, chỉ giữ nguyên Phó bảng nhưng triều Đồng Khánh không chấp thuận. Sau đó, ông được sung chức Tuyên úy sứ Quảng Nam Tả trực kỳ, rồi Thượng thư bộ Hộ, Thượng thư bộ Lại, Hiệp Biện Đại học sĩ gia hàm Thái tử Thiếu bảo.

Năm Đồng Khánh thứ hai (1887), ông được cử làm Tổng đốc Thanh Hóa và làm Chánh chủ khảo kỳ thi Hội năm này.

Năm Thành Thái thứ năm (1893), ông được triệu về kinh nhận hàm Hiệp tá đại học sĩ, tước An Trường tử, lãnh chức Thượng thư bộ Binh, sung Cơ mật viện đại thần.

Năm Thành Thái thứ tám (1896), với cương vị Tổng tài Quốc sử quán, Nguyễn Thuật nhận lệnh hiệp cùng Trương Quang Đản soạn cuốn Sử Quán thư mục.

Năm Thành Thái thứ mười ba (1901), vì bất hòa với Hoàng Cao Khải, và chống đối việc Nguyễn Thân chém chết mười mấy người thuộc chi đảng của Phan Đình Phùng nên Nguyễn Thuật xin về hưu. Ông mở trường dạy học tại quê nhà,  được nhân dân địa phương yêu mến, kính trọng gọi là cụ Thượng Hà Đình.

Khi chính quyền bảo hộ Pháp và Nam triều cho Nguyễn Thân về hưu và điều Hoàng Cao Khải ra Bắc Kỳ, vua Thành Thái liền ban chỉ triệu Nguyễn Thuật và cựu Thượng thư Hồ Lệ vào triều.

Sang đời vua Duy Tân, Nguyễn Thuật lại xin về hưu, rồi tiếp tục dạy học  tại Hà Lam cho đến khi qua đời vào ngày 25 tháng 11 năm Tân Hợi (1911), hưởng thọ 69 tuổi.

 

 Nguyễn Thuật đã để lại cho đời một số lượng tác phẩm thơ văn rất đồ sộ với trên 800 bài gồm đủ các thể loại văn, thơ, từ, phú, hát nói, câu đối… Ngoài ra, ông còn để lại nhiều tác phẩm thư pháp, bi ký cả trong và ngoài nước.

Thơ của Nguyễn Thuật giàu thi ảnh, mang tính nhân văn sâu sắc. Thơ văn của ông hàm chứa một nhân sinh quan tích cực, một thế giới quan lành mạnh, trong sáng.

Tác phẩm viết bằng chữ Hán của Nguyễn Thuật có: Hà Đình ứng chế thi sao; Hà Đình văn tập; Hà Đình văn sao; Mỗi hoài ngâm thảo (quyển I); Mỗi hoài ngâm thảo (quyển II); Hà Đình Ứng chế thi sao I; Hà Đình thi thảo trích saoHà Đình thi thảo trích sao (tiếp theo); Vãng Tân nhật ký Trung Triều định lệ; Khoái thư trích lục (bản chép tay, chưa in).

Phần tác phẩm viết bằng chữ Nôm, ông có 3 bài thơ làm theo thể ca trù: Chữ tình, Chữ nhàn, Phận anh hùng.

Ngoài ra, theo chỉ dụ vua, Nguyễn Thuật còn biên tập hoặc tham gia biên tập nhiều tác phẩm của các vua (như: Lê Thánh Tông, Thiệu Trị, Tự Đức, v.v...), của các danh sĩ (như: Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Trương Quốc Dụng, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Siêu, Phạm Quý Thích, Vũ Trinh, v.v...) và một số sách khác, như: Sử quán thư mục, Đại Nam danh sơn thắng thủy thi đề tập, Đại Nam cương giới vựng biên, Đại Nam quốc cương vựng biên, Đại Nam Quốc sử tàng thư mục, Tỳ bà quốc âm tân truyện, Thi thảo tạp biên, v.v...

*

* *

Là một nho sinh nơi cửa Khổng sân Trình, trải qua bao nhiêu năm dùi mài kinh sử, Nguyễn Thuật những mong đem sở học của mình ra thờ vua giúp nước, không quản ngại khó khăn. Nào hay “sinh bất phùng thời”, ông không thực hiện được hoài bão làm cho “quốc thái dân an” mà ông hằng ôm ấp bấy lâu. Trong bài Hát Nói “Phận anh hùng” ông viết:

                        Đã ra đời nào ngại gian nan,

                        Dẫu vinh nhục thăng trầm thôi cũng mặc!

                        Sơn hải quân ân thù vị đắc (1)

                        Phong ba thế cuộc hận nan bằng (2)

                                                           

Nguyễn Thuật ra làm quan giữa lúc thực dân Pháp lần lượt xâm chiếm đất nước ta, cơ đồ nhà Nguyễn gần như sụp đổ hoàn toàn.

Năm 1867 Nguyễn Thuật đỗ Cử nhân cũng là năm Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Nam Kỳ hoàn toàn rơi vào tay thực dân Pháp. Năm 1873, quân Pháp bắt đầu đánh ra Hà Nội. Năm 1882 Pháp đánh chiếm Hà Nội lần II. Với hòa ước Giáp Thân (còn gọi là hòa ước Patenôtre) ký ngày 6/6/1884, Việt Nam thành thuộc địa của Pháp dưới nhiều chế độ cai trị khác nhau. Năm 1885, kinh thành Huế thất thủ, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân dân hưởng ứng khắp nơi. Ngọn cờ Văn thân đã phất phới ở quê nhà Nguyễn Thuật, bài hịch cứu quốc khởi đầu bằng những câu kêu gọi lòng yêu nước và chí cương quyết hy sinh của sĩ tử dán khắp các đình chùa, trường học. Anh em của Nguyễn Thuật tham gia Nghĩa hội Quảng Nam chống Pháp, kẻ hy sinh, người bị bắt, cuối cùng phong trào Cần Vương tan rã.

Ngày 3/10/1888 Pháp ép vua Đồng Khánh ký đạo dụ nhượng các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng cho Pháp.

Trong hoàn cảnh ngặt nghèo của đất nước, mỗi sĩ phu tự chọn cho mình một cách sống: Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, Trần Bá Lộc hợp tác với Pháp sát hại đồng bào; Trần Văn Dư, Nguyễn Duy Hiệu, Phan Đình Phùng, Nguyễn Xuân Ôn chiêu mộ nghĩa quân, lập căn cứ chống Pháp bằng vũ lực; Nguyễn Khuyến thấy mình bất lực  không làm được gì để thay đổi thời cuộc nên xin cáo quan về ở ẩn để giữ tròn khí tiết còn Nguyễn Thuật thì ở lại, không phải để mưu cầu vinh thân phì gia mà để cố hết sức mình làm được bất cứ việc gì có ích cho nước cho dân. Dù phải gánh vác những việc khó khăn như Tinh Vệ ngậm đá lấp biển cũng không ân hận. Tấm lòng của ông đối với đất nước chẳng khác nào chim Việt không ngại bay tìm tổ ở cành Nam.

                                    Vệ cầm hàm thạch không sân hận   

                                    Việt điểu sào Nam cảm quyết phi

                                                                        (Tức sự II)

                                    Biển Đông, ngậm đá không ân hận

Chim Việt tìm cành há ngại bay

 (Nguyễn Thiếu Dũng dịch)

 

Với thái độ ứng xử trước thời cuộc như thế, Nguyễn Thuật sẵn sàng đảm nhận những trọng trách được vua giao phó hầu giúp nước giúp dân:

Năm 1883 ông đi sứ sang Thiên Tân hiệp thương với Trung Hoa yêu cầu  đem binh sang cứu viện nước ta.

Mặc dù từ năm Giáp Tuất 1874, triều đình Huế đã ký hòa ước với Pháp, công nhận nước ta không còn thần phục nước nào nữa, nhưng lúc bấy giờ vì bất đắc dĩ phải ký hòa ước chứ vua Tự Đức vẫn cứ theo lệ cũ triều cống Trung Hoa, với mong muốn khi hữu sự Trung Hoa sẽ sang giúp nước mình. Vì thế sau khi Pháp đánh chiếm Hà Nội lần I, năm 1883, nhà vua cử Nguyễn Thuật làm phó sứ cùng với chánh sứ là Thượng thư Phạm Thận Duật sang Thiên Tân thương thảo với Trung Hoa về việc Pháp xâm lược Việt Nam, nhưng việc không thành.

Trong “Vãng Tân nhật ký”, Nguyễn Thuật đã ghi lại nỗi phẫn uất trước thái độ hèn nhát của Trung Hoa không chịu đem binh thuyền cứu viện để cho Pháp bắt ép nước ta:

"Chúng tôi căm phẫn vô cùng, việc nước tôi với Pháp vốn do Trung triều gửi công văn muốn thu vén giúp, (nay) lại triệu chúng tôi tới Thiên Tân hỏi xét, rồi thì giảng giải đã chẳng xong, lại còn rụt rè sợ sệt, không chịu đem binh thuyền cứu viện, để cho người Pháp nhân lúc nước tôi có việc, ép chúng tôi hòa. Nước tôi lần này biến cố dồn dập, cái thế không thể không theo, còn Trung triều thì không bảo vệ được nước phên giậu, không biết có lời nào giải thích với thiên hạ chăng? Sự thể đến nước này, còn nói gì được nữa!"

 余等不勝憤恨,我國與法之事,原由中朝來文願為調停,又召余等至津詢問,乃講說既不能成,又畏縮趑趄,不肯以兵船相援,以致法人乘我有事,迫我以和。我國當次變故交集,其勢不得不從,而中朝不能保護藩封,不知何辭以自解於天下也?世局至此,尚何言哉!(越南欽差副使阮述《往津日记》) (3)

 

Tháng 8 năm Đinh Hợi 1887, Nguyễn Thuật được sung làm Tuyên uý xử trí đại thần ở Quảng Nam để giải quyết những vấn đề sau khi Nghĩa hội Quảng Nam tan rã, bằng uy tín và quyền hạn của mình ông đã làm ngơ cho một số thân sĩ Quảng Nam tham gia Nghĩa hội, nhờ thế mà nhiều người thoát tội chết.

Năm 1901, Nguyễn Thuật phản đối việc Nguyễn Thân dụ các văn thân chi đảng của cụ Phan Đình Phùng đem về kinh chém hết mười mấy người, ông nhất định không chịu ký tên rồi xin về hưu, ở nhà dạy học.

 

*

* *

 

Là một người đỗ đại khoa, học rộng hiểu nhiều, Nguyễn Thuật đã tận mắt chứng kiến những biến cố tang thương của lịch sử dân tộc làm sao ông không đau lòng trước cảnh nước mất nhà tan, nhưng Nguyễn Thuật đang là một đại quan của triều đình Huế, ông không thể bày tỏ thái độ căm thù giặc Pháp một cách thẳng thắn, mãnh liệt như Nguyễn Đình Chiểu:

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói   chạy đen sì muốn ra cắn cổ.

   Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó”.

                                                            (Văn tế Nghĩa sỹ Cần Giuộc)

mà chỉ nói một cách bóng gió xa xôi.

Trong bài “Trà Úc dạ phiếm” (Buổi tối dạo chơi ở Trà Úc) sau bốn câu tả cảnh trời nước bao la của vịnh Đà Nẵng trong một đêm trăng sáng, Nguyễn Thuật đã bộc lộ tâm sự của mình qua các câu luận và kết.

(Trà Úc còn gọi là vũng Đồng Long, vũng Thùng, Vũng Sơn Trà tức là vịnh Đà Nẵng.

Sách Ðại Nam Nhất Thống Chí (q.VII- tỉnh Quảng Nam) chép:

 “Vũng Sơn Trà (tức vũng Thùng) ở phía bắc huyện Hòa Vang, lại có tên là vũng Ðà Nẵng. Phía đông là núi Trà Sơn (Sơn Trà), phía bắc là núi Hải Vân, phía tây là tấn Cu Ðê, dài rộng ước 25 dặm linh (có lẻ), phía đông nam là vũng Trà Sơn (tức vịnh Hàn) là vùng biển lớn, vừa rộng vừa sâu, có thể chứa được hàng ngàn thuyền ghe, phía ngoài có núi che, không phải lo về sóng gió; tàu thuyền đi lại gặp lúc chưa tiện gió, phần nhiều đổ tại đây”)

 

                                    Trà Úc dạ phiếm

                                    Hải thiên vạn khoảnh vọng man nhiên

                                    Thập trượng bồ phàm tán mộ yên

                                    Phong cấp như đăng quang bất định

                                    Sơn không nguyệt ảnh chiếu vô biên

                                    Triều khê tỉ ngạc tằng hà nhựt

                                    Đào chẩm văn kê ức tích niên

                                    Thùy thị hùng tâm thôn bất đắc

                                    Nhứt ca khẳng khái phá sầu miên

 

Dịch nghĩa:           Buổi tối dạo chơi ở Trà Úc (Vịnh Đà Nẵng)

 

                                    Trời nước bao la ngó mênh mông

                                    Ngoài xa thấp thoáng cánh buồm mờ trong khói chiều

                                    Gió thổi làm ánh đèn chao lắc lư

                                    Núi vắng vầng trăng chiếu sáng khắp nơi

                                  Ngày nào từng đuổi cá sấu ra biển (4)                             

                              Gối sóng nằm nghe gà gáy nhớ chuyện năm xưa (5)  

                                 Ai có hùng tâm nuốt không trôi

                                 Lời ca khẳng khái phá giấc ngủ buồn.

Dịch thơ:

                                    Bát ngát biển khơi ngó mịt mùng

                                    Cánh buồm thấp thoáng khói chiều buông

                                    Gió lùa ánh lửa chao quầng sáng

                                    Núi vắng vầng trăng chiếu khắp vùng

                                    Nào thuở cá kình xua tận biển

                                    Giờ nghe gà gáy lệ sầu tuôn

                                    Hùng tâm, ai đó yên sao được

                                    Khẳng khái lời ca tỉnh giấc buồn

                                                            (Nguyễn Thiếu Dũng)

Bốn câu đầu của bài thơ, tác giả tả cảnh Vịnh Đà Nẵng trong đêm trăng sáng. Cảnh thật bao la mà tĩnh lặng vô cùng. Những thi ảnh: biển rộng mênh mông, chân trời mặt nước tiếp nhau ngút ngàn vô tận, xa xa thấp thoáng những cánh buồm mờ khuất dần trong khói sóng chiều tà, gió thổi đèn chài chao lắc lư, núi vắng, ánh trăng chiếu sáng khắp nơi vẽ nên một bức tranh sơn thủy hoang liêu và buồn man mác.

 

Nguyễn Thuật nhìn vịnh Đà Nẵng qua tâm trạng của người dân mất nước nên cảnh u buồn còn vua Lê Thánh Tông thì lại nhìn vịnh Đà Nẵng ở một tư thế khác. Sách Thiên Nam Dư Hạ Tập chép rằng: Vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, đóng quân ở Hải Vân Quan, đêm khuya không ngủ, vừa đứng ngắm núi biển, đèo, mây, nước, có câu thơ:

Tam canh dạ tĩnh Ðồng Long Nguyệt

Ngũ cổ phong thanh Lộ Hạc thuyền

Vũng Đồng Long đêm khuya thanh vắng, ánh trăng vằng vặc giữa trời, thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng đã khơi nguồn thi hứng cho nhà vua vẽ nên một bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp. Hình ảnh những con thuyền Lộ Hạc (Locac là bán đảo Mã Lai  ngày nay) xuất hiện trong câu thơ gợi lên cảnh tượng tàu thuyền các nước thường lui tới vịnh Đà Nẵng để giao thương buôn bán.  

Như vậy nhìn vịnh Đồng Long, vua Lê Thánh Tông không chỉ thấy một phong cảnh thiên nhiên đẹp mà nhà vua còn thấy được viễn cảnh kinh tế phồn vinh của vùng vịnh này.

Nguyễn Thuật nằm trên thuyền ở vịnh Đà Nẵng thao thức suốt đêm, nghe gà gáy nhớ chuyện năm xưa mà đau xót trong lòng.

 

                                    Triều khê tỉ ngạc tằng hà nhựt

                                    Đào chẩm văn kê ức tích niên

                                    Thùy thị hùng tâm thôn bất đắc

                                    Nhứt ca khẳng khái phá sầu miên

 

Phải chăng ông hồi tưởng những ngày nước nhà độc lập hùng cường, dân ta đã từng đánh đuổi quân thù “tỉ ngạc” ra khỏi cõi bờ, sống cuộc đời thanh bình, yên ổn. Còn giờ đây đất nước đã rơi vào tay giặc, Đà Nẵng đã trở thành nhượng địa của Pháp. Cũng chính tại vịnh Trà Úc, nơi tác giả đang dạo thuyền, liên quân Pháp- Tây Ban Nha đã nã pháo tấn công Đà Nẵng mở đầu cuộc xâm lăng, biến nước ta thành nô lệ. Nỗi đau đó đã hằn sâu trong tâm khảm của mỗi người dân Việt như một vết thương không thể nào lành, ai có tấm lòng vì nghĩa cả thì làm sao mà quên cho được sự kiện này!. Tác giả tự hỏi :

Thùy thị hùng tâm thôn bất đắc”.

(Hùng tâm, ai đó yên sao được?)

Hỏi người nhưng cũng chính là tự hỏi mình. Vì thế câu hỏi càng xoáy sâu vào lòng làm nhức nhối tâm can.

Đoạn thơ tuy nói một cách kín đáo nhưng người đọc vẫn cảm thấy được tâm trạng khắc khoải của Nguyễn Thuật trước thời cuộc. Phải là người có lòng yêu  nước thiết tha thì mới thức trắng đêm để suy tư, đau buồn về hiện tình tối tăm của đất nước như ông.

Cùng tâm trạng như Nguyễn Thuật, Trần Quý Cáp trên đường lai kinh ứng thí, ngang qua Đà Nẵng, trước cảnh quê hương đã thay chủ đổi ngôi, ông không khỏi xót xa khi nhìn thấy kẻ thù nghênh ngang ra vào thành phố, tàu thuyền của chúng giương cờ tam tài tự do cập bến, đường sắt thông thương  xuyên núi Hải Vân:

 

                                      Thử địa do hà động chiến phong,

                                    Chỉ kim đáo xứ hủy xà tung.

 Thuyền lâm nội phụ tam tài sắc,

 Xa tẩu trùng quan nhứt lộ thông.

                                    (Trần Quý Cáp- Đà Nẵng hoài cảm)

 

Đất ấy vì đâu nổi chiến tranh?

Giờ đây heo rắn dẫm tan tành.

Tàu vào bến cảng cờ ba sắc,

Xe vượt đèo cao một lộ nhanh.

                        (Nguyễn Thiếu Dũng dịch)

 

Nước mất nhà tan, công phu học hành rèn luyện bao nhiêu năm trời của các nhà nho giờ chẳng còn có ích gì cho đất nước. Nhìn cảnh Nam Kỳ đã thành thuộc địa của Pháp, Nguyễn Thuật chỉ còn biết chảy nước mắt khóc thầm mà thôi:

                                    Thập niên đăng hỏa tiêu trầm tận

                                    Hồi thủ Ngưu giang lệ ám thùy

``                                                                      (Tức sự I)

                                    Mười năm đèn sách thành công cốc

                                    Bến Nghé trông vời nước mắt rơi.

                                                                        (Nguyễn Thiếu Dũng dịch)

 

Nỗi đau của Nguyễn Thuật biểu lộ trong bài thơ cũng là nỗi đau chung của một số trí thức đương thời. Tam Nguyên Yên Đổ trong bài “Cuốc kêu cảm hứng” đã ví mình như con chim cuốc khóc than cho vận nước lâm nguy đến máu chảy hồn tan:

                                    Năm canh máu chảy đêm hè vắng,

                                    Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.

                                                (Nguyễn Khuyến- Cuốc kêu cảm hứng)

 

Và băn khoăn ray rứt vì sự bất lực của mình :

 

                                    Sách vở ích gì cho buổi ấy,

                                    Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.

                                                (Nguyễn Khuyến – Ngày xuân dặn các con)

 

Phan Bội Châu trong bài thơ “Xuất dương lưu biệt” cũng nói:

 

                                    Non sông đã mất, sống thêm nhục.

                                     Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài.

 

Nguyễn Thuật là một vị quan lớn của triều Nguyễn suốt đời tận tụy vì dân vì nước. Làm quan trải qua 8 đời vua: Tự Đức, Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, hai lần đi sứ Trung Hoa mà gia đình vẫn thanh bạch. Ông không những được các vua tin tưởng giao phó những chức vụ quan trọng mà đương thời nhân dân và sĩ phu rất kính trọng, mến phục ông vì đức tính thanh liêm, lòng yêu thương và gần gũi nhân dân của ông.

Ngoài cương vị một đại thần, một sử gia, nhà giáo dục, Nguyễn Thuật còn là một nhà thơ, nhà văn có tài. Tác phẩm của ông đa dạng, phong phú giàu tính nhân văn và nghệ thuật.

Thơ văn ông ít đề cập đến thời thế, tuy nhiên một số bài cũng cho thấy nỗi lòng đau đáu của ông trước cảnh nước mất nhà tan và thái độ ứng xử của ông trước thời cuộc.

C.Y.L

 

Chú giải:

    

1)     Sơn hải quân ân thù vị đắc: Ơn vua lớn như núi biển khó (chưa) trả được.

2)     Phong ba thế cuộc hận nan bằng: Cuộc đời sóng gió hận không làm cho yên được.

3)     Trích theo tranquangduc.blogspot.com.

4)     Thời Trần, Hàn Thuyên đuổi cá sấu ra biển. Nghĩa bóng: đuổi quân thù ra khỏi đất nước.

5)     Kê khuyển tương văn: nghe tiếng gà, tiếng chó biết nơi đó có dân cư, làng xóm. Nghĩa bóng chỉ cuộc sống thanh bình(chuyện Đào hoa nguyên kí).