Cha tôi
Minh họa: HOÀNG ĐẶNG
Cha tôi là người lính, từng tham gia những trận đánh ác liệt ở thành cổ Quảng Trị, tôi luôn tự hào về điều đó. Ông bước ra từ cuộc chiến tranh mà "quà về cho mẹ là những vết thương"; ấy vậy phải mãi tới sau này, tôi mới hình dung được hết thế nào là nỗi đau sau cuộc chiến. Tôi nhớ hồi mình còn bé tẹo khi nhìn thấy trên cánh tay cha có một vết thẹo to, tôi hỏi thì cha cười bảo rằng vì hồi nhỏ mãi chơi không chịu học hành nên bị ông nội đánh đòn.
Cho tới mãi sau này lớn lên, tôi mới biết đó chỉ là lời nói đùa. Vết sẹo ấy là chứng tích của mảnh đạn găm vào tay cha trong trận chiến kéo dài suốt 81 ngày đêm ở thành cổ Quảng Trị. Khi đó, cha tôi thuộc lính Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 27 do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Huy Hiệu trực tiếp chỉ huy ở mặt trận B5.
Đến tận bây giờ, những lúc trái gió trở trời, vết thương ấy vẫn âm thầm hành hạ cha. Những lúc ấy, cha âm thầm chịu đựng. Có lần, tôi hỏi bước qua cuộc chiến rồi cha còn nuối tiếc gì không. Cha trầm ngâm một lúc rồi trả lời điều ông nuối tiếc nhất là chưa thể tìm thấy hết những hài cốt đồng đội đã hy sinh trong cuộc chiến khốc liệt năm nào. Và, như thường lệ khi nhớ về trận chiến năm xưa, cha lại xúc động, rưng rưng đọc cho tôi nghe mấy câu thơ trong bài "Lời gọi bên sông" của nhà thơ Lê Bá Dương: "Đò lên Thạch Hãn ơi, chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm".
Dường như với cha, hình ảnh những người đồng chí hy sinh khi tuổi còn thanh xuân luôn ám ảnh trong ông. Đã có biết bao lần cha cùng hội lính thành cổ Quảng trị trở vào thăm chiến trường xưa với mong muốn có thể tìm lại được hài cốt cho một vài đồng đội thân yêu của mình. Nhưng mỗi lần trở về, tôi lại thấy cha buồn vì tâm nguyện chưa thành.
Trước giờ cha lên bàn mổ, tôi hỏi đùa cha có sợ đau không…, cha tôi không trả lời. Ông chỉ ngắm những khuôn mặt bệnh nhân đang lo lắng xung quanh mình bằng một ánh nhìn động viên sâu sắc. Tôi hiểu với người đã cận kề cái chết bao lần như cha thì mổ lần này có là gì đâu…
Cha tôi là người ít than vãn về bệnh tật của mình, ốm đau gần như tự chăm sóc. Còn với người khác trong gia đình, hễ ai đau ốm, cha đều chạy khắp nơi tìm mọi thứ thuốc thang chữa trị. Ngày nhập viện và được chỉ định mổ, cha cứ giục tôi về lo việc dạy học, rồi tự ông gọi điện sắp xếp mọi công việc đâu vào đấy.
Sau mổ một ngày, tôi mới vào chăm cha được. Từ giường bệnh trông cha gầy hẳn, tóc bạc hơn. Nhìn kỹ, tôi thấy cha giống ông nội lúc còn sống. Vừa trông thấy tôi, cha đã bảo: "Hôm nay không đi dạy à, vào làm gì?". Tôi bảo là ngày nghỉ con vào thay cho mẹ về; lúc đó cha mới không nói gì thêm. Nhiều người trong phòng hậu phẫu không ngừng kêu đau đớn. Cha không hề. Nhưng giọng nói yếu hẳn đi. Em gái tôi đùa: "Giọng nhỏ thế về nhà sao còn quát được mấy đứa cháu nghịch như giặc". Cha tôi cười. Nụ cười mà có lẽ ai trông vào cũng khó nhận ra sự mệt mỏi của một bệnh nhân vừa qua cơn nguy kịch…
Sau ca mổ, chúng tôi cứ ngỡ cha còn yếu nên sẽ ít chuyện trò, vậy mà chỉ hơn ngày sau, ông đã lại trò chuyện rôm rả với bệnh nhân cùng phòng. Dường như ca mổ cũng chỉ như là một vết thương nhẹ mà cha tôi từng phải trải qua nơi chiến trường. Những lúc tôi sắp xếp công việc vào thăm, cha lại say sưa kể chuyện chiến chinh ngày trước cho tôi nghe. Cha tôi kể nhiều đến những người đã không có được may mắn trở về đoàn tụ với gia đình, vợ con.
Trong những người lính phải bỏ thân mình lại nơi chiến trường mà cha kể, tôi cứ bị ám ảnh với câu chuyện về chú Năm, quê ở Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Chú Năm là con út trong gia đình có tới 3 người anh đã đi bộ đội nhưng chú Năm vẫn viết đơn tình nguyện xung phong lên đường ra trận, Trước đêm hy sinh, chú còn khoe với cha tôi vừa nhận được thư của mẹ và sẽ hồi âm sau trận đánh. Vậy mà… sau trận đánh ác liệt, đồng đội chỉ tìm được một phần thân thể của chú. Trong túi áo nhuốm đầy máu vẫn còn bức thư của mẹ với những con chữ mong chờ…
Sáng nay, cha đã ăn được cơm, tôi ra ngoài mua hai suất, phòng chật quá nên tôi ra hành lang ăn. Gặp một ông lão đầu tóc bạc phơ. Cả ông và tôi vừa ăn vừa trò chuyện. Ông năm nay đã hơn tám mươi, từng là giảng viên trường đại học thủy sản, công tác từ thời trường còn đóng ở Hải Phòng. Ông cũng vào đây chờ mổ.
Tôi hỏi ông có lo lắng không. Ông bảo ai sắp lên bàn mổ cũng ít nhiều lo lắng; đã vướng vào dao kéo, liên quan đến tính mệnh, người có mạnh mẽ đến đâu cũng không khỏi suy nghĩ. Tôi lại thắc mắc nhưng trông ông không thấy gì lo lắng cả, ông cười bảo có người sự lo lắng hiện ra bên ngoài, người khác dấu vào bên trong, chỉ khác nhau ở chỗ biểu hiện. Nên người nhà cần phải ở bên để động viên. Tinh thần tốt sẽ chiến thắng thời khắc gay go. Nói đoạn, ông chỉ cho tôi bó hoa đặt bên giường bệnh của ông: "Con gái mình mua tặng đấy, cứ nhìn vào lại thấy yên tâm hơn với ca mổ sắp tới". Tôi nhìn ông lão, cả hai cùng nở nụ cười lạc quan.
Tôi ôm một bó hoa tặng cả phòng bệnh nơi cha tôi nằm. Tôi biết cha tôi sẽ mắng tôi rằng phí tiền, hoa rồi tàn cũng vứt bỏ đi... Mà cha mắng tôi thật. Nhưng tôi vẫn để ngay ngắn bó hoa ở phòng bệnh. Tôi hiểu cha mắng vậy nhưng trong lòng ông chắc vui, cả phòng bệnh vui… Lâu nay, tôi vẫn chỉ biết và quen thăm hỏi ai đó bằng phong bì, nhưng kỳ thực hương hoa đang tỏa ngát khắp căn phòng khiến căn phòng dường như ấm áp hơn. Tôi nhìn sâu thẳm vào mắt cha, tôi biết cha không trách mình đã mua hoa nữa và thấy rõ một nụ cười giấu kín đâu đó trong đáy mắt cha.
(nld.com.vn)