Ngàn năm Champa trong văn hóa xứ Quảng

04.09.2025
Võ Văn Thắng
Phạm vi thành phố Đà Nẵng ngày nay kéo dài từ đèo Hải Vân ở phía bắc đến gần cửa sông Trà Bồng ở phía nam; phía tây là dãy Trường Sơn và phía đông là biển đảo, chứa đựng nhiều di sản văn hóa.

Ngàn năm Champa trong văn hóa xứ Quảng

Một góc quần thể di tích kiến trúc Khu đền tháp Mỹ Sơn (xã Thu Bồn). Ảnh: QUỐC TUẤN

Xét theo chiều dài lịch sử, vùng đất này chứa đựng nhiều tầng văn hóa, trong đó có tầng văn hóa Champa với những dấu ấn đậm nét trong hơn 10 thế kỷ.

Phiến đá kể chuyện

Văn hóa Champa xuất hiện ở lưu vực sông Thu Bồn bắt đầu từ các thế kỷ đầu công nguyên trên nền tảng của đời sống cư dân bản địa kết hợp với các yếu tố của văn minh Ấn Độ.

Thư tịch Trung Hoa có nhắc đến vị vua Lâm Ấp (ở khu vực miền Trung Việt Nam) vào thế kỷ 4 đã gửi thư cho vua Trung Hoa, dùng “chữ Hồ” - một kiểu chữ có nguồn gốc Ấn Độ. Dấu vết của kiểu chữ này đã được các nhà khảo cổ tìm thấy trên một bia đá ở châu Đông Yên, bờ nam sông Thu Bồn (nay thuộc xã Duy Xuyên, thành phố Đà Nẵng).

Tấm bia dùng chữ Phạn để ghi cả tiếng Phạn lẫn tiếng Chăm cổ. Các nhà nghiên cứu xác định tấm bia được lập vào khoảng thế kỷ 4, thờ một vị thần bảo hộ nguồn nước, có thể là thần Rắn trong văn hóa bản địa và văn hóa Ấn Độ.

Và cột mốc thời gian đánh dấu sự xuất hiện của vương quốc Champa là những tấm bia đá ở di tích Mỹ Sơn (xã Thu Bồn). Nhờ những dòng chữ sứt mẻ trên các tấm bia, các nhà nghiên cứu đã xác định những vị vua đầu tiên của Champa dựng các đền tháp ở Mỹ Sơn từ khoảng thế kỷ 5 để thờ các vị thần Ấn Độ giáo, tôn kính thần Siva là vị thần bảo hộ cho vương quốc và hoàng gia.

Nhiều di tích đền tháp và văn khắc còn lại ở Mỹ Sơn ngày nay cho thấy khu đền tháp này đã được các vương triều Champa duy trì đến thế kỷ 13 hoặc sau đó nữa.

Trong gần 10 thế kỷ, khu đền tháp Mỹ Sơn giữ vai trò là một trung tâm tín ngưỡng quan trọng hàng đầu của Champa; và ở khắp các địa phương thuộc thành phố Đà Nẵng ngày nay có khá nhiều kiến trúc Champa khác được xây dựng.

Ở khu vực Trà Kiệu, xã Duy Xuyên, đã tìm thấy dấu tích của một khu kinh thành lớn, có tường bao quanh, có kiến trúc đền đài và điêu khắc, được xác định như là một kinh đô của Champa trong một thời gian dài, bắt đầu từ khoảng thế kỷ 7-8.

Dọc theo quốc lộ từ Nam ra Bắc qua địa phận thành phố Đà Nẵng, du khách ngày nay còn có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp cổ kính, huyền bí của các ngôi tháp Chăm Khương Mỹ (xã Tam Xuân), tháp Chiên Đàn (xã Tây Hồ), tháp Bàng An (phường An Thắng).

Việc người Chăm xây dựng và trùng tu các ngôi tháp này được xác định kéo dài từ trước thế kỷ 9 cho đến thế kỷ 12.

Đặc biệt, ở thượng nguồn sông Ly Ly, thuộc xã Đồng Dương, còn có dấu tích một kiến trúc rộng lớn của Champa (thường được gọi là Phật viện Đồng Dương).

Văn bia, tượng thờ và kiến trúc tại Đồng Dương là chứng tích của sự phát triển Phật giáo song hành với Ấn Độ giáo tại vương quốc Champa.

Dấu vết thời kỳ lịch sử

 

Ở khu vực bắc sông Thu Bồn, ngoài ngôi tháp Bàng An còn đứng vững, du khách không còn nhìn thấy các ngôi tháp Chăm.

Văn khắc Chăm tại Mỹ Sơn. Ảnh: V.V.T

Việc khai khẩn lập làng của dân cư Đại Việt sau năm 1306 và đặc biệt các cuộc chiến tranh thế kỷ 20 đã làm mất đi rất nhiều kiến trúc thời kỳ Champa tại đây.

Tuy vậy, các tượng thần của dân cư Champa vẫn được dời về, thấp thoáng trong các Miếu Bà của các làng lập mới vào thời kỳ Đại Việt, như trường hợp các tượng Chăm ở Miếu Bà Quá Giáng (phường Hòa Xuân), Miếu Bà Khuê Trung (phường Cẩm Lệ), hay trong danh xưng Bô Bô trên bài vị tại Miếu Bà Xuân Dương (phường Hải Vân).

Đặc biệt, các cuộc khai quật khảo cổ tiến hành trong những năm gần đây ở Cấm Mít (xã Hòa Vang) và Phong Lệ (phường Cẩm Lệ) đã phát hiện những nền móng đền tháp và các hiện vật thờ cúng của dân cư Champa có niên đại khá muộn, như một vò gốm có hoa văn và màu sắc tương tự với gốm Gò Sành, thế kỷ 15.

Có thể nói trên khắp các xã, phường của thành phố Đà Nẵng mới đều lưu những dấu vết của một thời kỳ lịch sử Champa. Từ nền móng tháp Xuân Dương và rất nhiều giếng Chăm vùng cửa sông Cu Đê phía bắc (phường Hải Vân) đến cụm tháp Khương Mỹ ở phía nam; từ những bệ thờ trong hang động ở Non Nước (phường Ngũ Hành Sơn) và các dấu tích gốm Chăm ở Cù Lao Chàm trên Biển Đông, cho đến phía tây xa xôi là những dòng chữ khắc trên vách đá ở Trường Sơn (thường được gọi là bia Samo, xã La Dêê). Tất cả ghi dấu cả thời kỳ gần ngàn năm trong lịch sử của vùng đất Đà Nẵng.

Vùng đất Amaravati, Ulik của Champa đã hội nhập vào Đại Việt từ thế kỷ 14, 15. Cùng với các di sản vật thể, dấu ấn ngàn năm Champa còn bàng bạc trong tập quán, ẩm thực, từ ngữ của dân cư xứ Quảng, hỗn dung với văn hóa Đại Việt, tạo thành đặc trưng văn hóa mang tính vùng miền, có thể nhận biết được.

Hơn hai trăm năm khi vương quốc Champa không tồn tại ở vùng đất Đà Nẵng, lúc người phương Tây đến vùng đất này, vào thế kỷ 17, họ vẫn cảm nhận một sắc thái Champa, và đã gọi tên vùng đất này là “Caciam”, “Kẻ Cham”, “Tỉnh Chàm”.

Đến thế kỷ 18, Lê Quý Đôn ghi chép sách “Phủ biên tạp lục”, đã ghi nhận tên dinh trấn Quảng Nam được dân gian gọi là “Dinh Chiêm”.

Đầu thế kỷ 20, các nhà khảo cổ người Pháp đã chọn vị trí Đà Nẵng để xây dựng một nhà bảo tàng lưu giữ các hiện vật Chăm, với lý do Đà Nẵng giữ vai trò trung tâm tiêu biểu của 10 thế kỷ Champa ở miền Trung Việt Nam.

Cuộc hội nhập Champa - Đại Việt đã diễn ra trong lịch sử có khi bằng con đường hòa bình, kết nghĩa thông gia, có khi là chiến tranh chinh phạt giữa các vương triều.

Trong dòng chảy văn hóa, sự hòa trộn diễn ra lặng lẽ bên dưới những chiến địa ác liệt, không phân biệt cưỡng chiếm và bao dung. Di sản văn hóa Champa còn lại trong lòng Đà Nẵng là một phần quan trọng trong lịch sử liên tục của một vùng đất; kế thừa và phát huy giá trị di sản đó là tình cảm và trách nhiệm của cộng đồng dân cư Đà Nẵng hôm nay.

(baodanang.vn)