Cùng lục bát "Thềm xưa" của Nguyễn Nho Khiêm

07.10.2025
Chế Diễm Trâm
Nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm ấn hành tập thơ thứ bảy "Thềm xưa" (NXB Đà Nẵng, 9/2025) với thuần một thể thơ lục bát. Tập thơ là sự trở về với thể thơ dân tộc trong một tâm thế nhẹ nhàng như một cuộc chơi với thi ca, với chữ nghĩa.

Cùng lục bát "Thềm xưa" của Nguyễn Nho Khiêm

Dễ nhận thấy, đối tượng trữ tình của Thềm xưa là quê cũ gắn với ngôi nhà cũ. Ngôi nhà ấy, thềm nhà ấy giờ không còn, bỗng lúng túng cả đứng ngồi: “Nửa đời gắn với ngôi nhà/ Thương mưa dồn dột, nắng lòa xòa rơi/ Tường rêu, giường ván quen rồi/ Mai về chỗ mới đứng ngồi nơi đâu?” (Nhà xưa).

Trong nỗi hoài niệm về những hình bóng xưa, hình tượng “bóng” xuất hiện nhiều lần, với nhiều đối tượng. Quê hương là “bóng non”, “bóng rừng”, “bóng lá”, “bóng mây”… Đứng giữa quê nhà, mà mọi hồi tưởng xa xăm như chiêm bao, cả “bóng em” cũng chập choạng, chới với: “hôm qua chợt thấy bóng rừng/ ngủ trên bóng lá xanh từng bóng mây” (Bóng xa); “Em xưa bóng nhớ còn đây/ Ủ đêm thành mộng, ủ ngày thành mơ” (Bóng xuân).

Nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm gây dựng Thềm xưa theo cấu trúc ba đoạn (phần): Lời đọng trong sương, Giấc mơ bay, Khúc chiều xanh.

Có lẽ, Lời đọng trong sương chủ yếu là thao tác hồi cố, trở về quá vãng qua những hoài niệm. Vì thế, những từ “xưa”, “xa” là con mắt thơ. Phần Giấc mơ bay chủ yếu là thơ tình, những tình yêu mơ mộng nhưng trắc trở, thường được hóa giải bằng chôn giấu trong tim hoặc bằng buông bỏ.

Còn phần cuối - Khúc chiều xanh - là những chiêm nghiệm sau những chuyến đi, đi là để trở về. Cho nên, dẫu có đi muôn phương thì vẫn không quên Vũng Thùng, phố Hội, núi Sơn Trà, biển Mỹ Khê, đặc biệt là làng Giáng La, cánh đồng làng, bếp của mẹ…

Cấu trúc như thế, có lẽ, làm cho thơ giàu yếu tố tự sự hơn, tự sự mạch lạc mà lại không tự sự, trái lại, vẫn là những đoản khúc trữ tình da diết.

Trong Thềm xưa, không hiếm những câu, những bài mang phong vị lục bát dân gian (ca dao) với nhịp dàn đều, nhịp nhàng (nhịp 2/2 hoặc 4/4), với lời thơ, hình ảnh thơ hồn nhiên, mộc mạc, dân dã: “Hoa vườn nở rộ mùa xuân/ Xóm làng bánh tét, bánh chưng, lửa hồng/ Hương trầm khói tỏa thinh không/ Hồn xưa đỉnh núi ngọn sông tìm về” (Mùa xuân).

Song, với những nhà thơ lục bát đương đại, cách tân tiết tấu qua nhịp thơ, cách tân hình thể câu thơ (mỗi dòng lục hoặc dòng bát được chia thành nhiều dòng), cách tân cấu trúc câu thơ… được các nhà thơ vận dụng khá nhiều. Trong Thềm xưa, chúng ta có thể thường xuyên bắt gặp những phương thức cách tân như thế: “Xem ảnh cũ: nhớ. buồn. mong.../ Ngồi thiền cũng rối bòng bong chuyện nào” (Xem ảnh cũ) hoặc: “bây giờ/ ngồi nhớ thương nhau/ chiêm bao buốt trái tim đau/ một mình…” (Ngồi nhớ thương nhau).

Nhìn tổng thể, tập thơ Thềm xưa cất lên một giọng điệu khá nhất quán - yêu thương, thiết tha - giọng điệu của lục bát ngàn xưa, điệu tâm hồn Việt qua bao đời. Bởi thế, Thềm xưa có sức đồng cảm và rung động, ít nhiều nhập hòa vào kho tàng lục bát rộng lớn của dân tộc.

(baodanang.vn)