Bí ẩn ngài Xá La Cây tộc Ung xứ Tro Ren

12.11.2025
Vũ Hùng

Bí ẩn ngài Xá La Cây tộc Ung xứ Tro Ren

Trên con đường quốc lộ 1A xuyên bắc nam, cách Tam Kỳ khoảng 5 km về phía bắc, ngay bên đường sừng sững ba ngọn tháp Chàm cổ tại xứ Tro Ren, đất tổ của dòng tộc Ung.

Tro Ren là tên xứ đất của làng Chiên Đàn khấn lên trong văn lễ cúng. Ngày xưa, Chiên Đàn  là một vùng đất rộng lớn, từ phía tây giáp miền núi cao Trà My đến tận vùng đầm lầy đồng bằng. Nay, Chiên Đàn thu hẹp lại chỉ còn địa danh một ngôi làng cổ. Nguồn gốc tên gọi Chiên Đàn từ chính cư dân bản địa của vùng đất Champa xưa. Chiên Đàn là đọc chệch tiếng Chàm Chandan hay Chandral, nguồn gốc từ tiếng Sanskrit Cadana/ Chandana, là tên gọi của loại gỗ đàn hương. Địa danh Chiên Đàn được ký âm qua chữ Nho ghi trong tộc phả tộc Ung và trong địa bạ đầu thế kỷ 19, nhưng vẫn còn lưu giữ âm gốc Chàm và ý nghĩa gỗ đàn hương(1). Đàn hương là một loại gỗ quý có hương thơm được dùng tạc tượng thần, được tinh chế dầu dùng trong các nghi lễ Ấn giáo và là mặt hàng xuất khẩu giá trị. Đàn hương còn là biểu tượng của thần Vishnu, vị thần được thờ tại một trong ba ngôi tháp cùng với các thần Brahma và Shiva tại hai khu tháp cổ Champa trong làng Chiên Đàn và làng Khương Mỹ - cách Chiên Đàn khoảng 10 km về phía nam theo đường thẳng.

Loại gỗ quý này không còn nữa, chỉ còn lưu lại trong ký ức của các vị cao niên về một loại gỗ quý tỏa hương thơm, tên của làng và cũng là tên gọi của ba ngọn tháp Champa còn khá nguyên vẹn trong làng Chiên Đàn. Trong khuôn viên khu đền tháp này có một tấm bia đá khắc chữ Chàm cổ còn sắc nét. Bia dựng vào thế kỷ 11, ghi chép về một vị vua tồi tệ đã để lại một đất nước hoang tàn. Vị vua mới Harivarman đã xây dựng lại đất nước từ chiến tranh đổ nát, xây dựng một kinh đô, khôi phục kinh thành Tralauṅ Svon và làm cho đất nước thịnh vượng trở lại. Ngài mở rộng biên giới Champa và khiến một số vùng đất láng giềng tuân phục. Ngài dâng tặng lễ vật cho chư thần thành Madhurāpura và dựng một linga tại thành Harināpura. Ngài dâng tặng các tù nhân bị bắt cho các vị thần địa phương khác nhau. Ngài cải cách hệ thống thuế khóa và đã làm cho đất nước Champa hùng cường hơn cả trước khi xảy ra chiến tranh(1).

Khu đền tháp Chiên Đàn còn có tên gọi khác là tháp Bà Rầu,  một tên gọi kế thừa của người bản địa Champa  xưa  tại  đây. “Tháp  Bà  Rầu, Bia Chiên Đàn cầu Bà Dụ, ụ Ông Nghê” là câu nói truyền miệng trong dân gian tại đây về ba di tích Champa ở trong làng Chiên Đàn(1). Cầu Bà Dụ và ụ Ông Nghê đều trên quốc lộ 1A, cách cụm tháp chừng vài trăm mét. Ụ là một gò đất nơi trước đây có hai tượng đá khá lớn, một hoàn toàn lộ thiên, tượng còn lại chỉ phần đầu nhô lên mặt đất. Sau này, hai tượng ấy đã được di dời vào khuôn viên khu đền tháp. Không phải tượng ông Nghê, mà là hai tượng thần Gajasimha đầu voi mình sư tử thường thờ trong các đền tháp Champa.

Bên cạnh ba di tích Chàm, các cánh đồng Trà Mưu, Trà Nê, Trà Nao, Ma Khăm, Ma Vang, Ma Nay, xứ đất Tro Ren, Dàng/Đàng Na Niếc của làng Đức Bố, nơi một nhánh họ Ung sinh sống, theo các vị cao niên họ Ung cũng là tiếng Chàm còn lưu lại(2). Bên cạnh các địa danh gốc Chàm, chung quanh Chiên Đàn còn có nhiều di tích, phế tích Champa. Cách tháp Chiên Đàn khoảng hơn 10 km, phía nam sông Tam Kỳ, là khu đền tháp Khương Mỹ, phế tích tại Trường An, phế tích Phú Hưng (1) mà những hiện vật cho biết có  thể  từng  tồn tại 3 ngọn tháp thờ các thần Vishnu, Brahma và Shiva như khu đền tháp Khương Mỹ, Chiên Đàn; gần hồ Phú Ninh là phế tích thành Lồi(2). Khu vực gần sát khu đền tháp Chiên Đàn hơn có tháp Lạn tại An Phú, các di tích Bà Huỳnh, Rừng Miếu, Rừng É, nhất là di tích An Mỹ khá đồ sộ, phát hiện bộ Yoni-Linga lớn nhất và nhiều hiện vật có mô típ tương đồng với di tích Đồng Dương. Đồng Dương là Phật viện đồng thời là kinh đô Indrapura, cách Chiên Đàn khoảng 16 km về phía bắc, nhưng cho đến nay dấu vết kinh thành này vẫn còn bí ẩn. Từ khu đền tháp Chiên Đàn và các di tích, phế tích chung quanh kết nối với di tích Đồng Dương, kinh đô Trà Kiệu, thánh địa Mỹ Sơn, tháp Bàng An phía bắc và các di tích Hương Quế và An Thái phía đông, từng là một vùng dày đặc văn hóa Champa, tồn tại nhiều thành lũy và đền tháp, một vùng đất sầm uất và đông đúc cư dân Chàm. Điều này còn phản ánh qua các địa danh ghi chép vào đầu thế kỷ 15.

Bia Chiên Đàn

Năm 1403, nhà Hồ chiếm vùng đất của Champa phía nam châu Hóa, thuộc các tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi (cũ). Tên của vùng đất này được ghi sớm nhất là trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi vào năm 1435 là Chiêm Chiêm và Chiêm Lũy(3). Hai mươi năm sau, năm 1455, lần đầu tiên giai đoạn lịch sử từ năm 1226 đến năm 1427 được biên soạn và các nhà sử học thời Lê sau này tiếp tục hiệu chỉnh hình thành bộ Đại Việt sử ký toàn thư, Chiêm Chiêm ghi thành Chiêm Động (占洞) và Chiêm Lũy thành Cổ Lũy  Động  (古壘洞)(4).  Động  là  một vùng cư dân hoặc một “palei” Chàm. Tộc Ung xứ đất Tro Ren là di duệ cư dân bản địa vùng đất Chiêm Chiêm - Chiêm Động.

Sau sự kiện lịch sử năm 1471, vùng đất từ Chiêm Chiêm đến đèo Cù Mông thuộc về Đại Việt, trong đó có cư dân “palei” Chàm bên chân tháp Bà Rầu của xứ Chiêm Chiêm. Một bộ phận cư dân bản địa tại đây trở thành thủy tổ của tộc Ung, đến nay được 21 đời, tính từ sau năm 1471.

Trong Tộc ước của tộc Ung (雍) và văn cúng của đình làng Chiên Đàn cho biết ngoài tộc Ung còn có các tộc Ma, Trà, Dậu/ Đậu(1) là những cư dân bản xứ cùng thời với tộc Ung. Cho đến nay chưa phát hiện ghi chép hay truyền khẩu nào về người của các tộc Ma, Trà, Đậu vì sao không còn ai trong làng nữa, họ đã đi đâu, có chuyển sang các dòng họ khác của người Việt hay không(2). Tro Ren là một “palei” Chàm, sau đó cư dân Đại Việt đến cộng cư, là một trong những ngôi làng cổ nhất ở Quảng Nam.

Ung là một âm trong vương hiệu vua Champa. Tại một bia đá ở Mỹ Sơn, niên đại năm 1203, vương hiệu của hai vị vua Champa thời đó có âm Ung hoặc Ông: Sri Jaya Indravarman On Vatuv và Mangahna On Dhanapati(3). Các vị vua quan Champa được sử quan Đại Việt phiên âm thành họ Ung ghi nhận sớm nhất là từ thời nhà Lý. Năm 1130, có hai người Champa là Ung Ma và Ung Câu sang quy phục; năm 1152, Ung Minh Tà Diệp sang xin nhà Lý trợ giúp để trở về làm vua Champa(4). Quan hệ giữa Champa và Đại Việt vào các triều đại phong kiến sau này không còn xuất hiện các vị vua và quan tướng Champa có âm Ung/Ông nữa.

Theo các vị cao niên và ghi chép trong các tộc phả, đến đời thứ 7 một bộ phận từ Chiên Đàn di chuyển đến các làng lân cận sinh sống như An Hà, Bông Miêu, Đức Bố, Nga Sơn, Trung Đàn, Bích Tân(5). Tại tỉnh Quảng Ngãi, phía nam Chiên Đàn, tại xã Bình Minh, huyện Bình Sơn và xã Tịnh Bình, huyện Sơn Tịnh, có tộc Ung. Tuy không ghi chép quan hệ huyết thống nhưng người tộc Ung ở đây tin rằng nguồn gốc dòng tộc mình từ Chiên Đàn di chuyển vào, lễ chạp mã hàng năm đều mời đại diện tộc Ung làng Chiên Đàn về dự. Về phía bắc, tộc Ung còn truyền khẩu câu chuyện dòng tộc có mối quan hệ với một làng cùng tên tại bờ nam đèo Hải Vân, ngày xưa, từng cử người ra thu thuế. Có chăng tổ tiên tộc Ung ở Chiên Đàn thuộc vùng đất của vị trại chủ Champa Câu Chiêm đầu thế kỷ 14 và tổ tiên tộc Phan tại Đà Sơn - Đà Ly, bờ nam Hải Vân, mà trong phổ chí tự nhận mình “ngã thị Chiêm chủng” (dòng dõi gốc Chàm), vào đầu thế kỷ 15 từng có ý định xin lập huyện Đà Bàn ranh giới từ Hải Vân đến sông Trà Khúc, Quảng Ngãi? Trong khi mối quan hệ này như màn sương hư thực  và  không có làng Chiên Đàn nào tại nam Hải Vân, tại làng Đà Ly cũng có vị thủy tổ cùng tộc Ung (雍) - Ung Văn Lào, gốc Chàm, sinh sống từ nửa cuối thế kỷ 14 đến nửa đầu thế kỷ 15, nguyên là một “động trưởng” cũ cử làm “tri thâu” Đà Ly sau khi nhà Hồ chiếm Chiêm Động và Cổ Lũy năm 1403(1). Hiện nay, con cháu của vị thủy tổ họ Ung này đã chuyển  thành  tộc  Ông.  Chưa  rõ  vì năm cuối thập niên 70 của  thế  kỷ 20, tộc Ông có mời đại diện tộc Ung ở Chiên Đàn ra Phong Lệ tìm hiểu nguồn gốc, nhưng cũng không tìm được mối quan hệ huyết thống.

Cũng như tộc Chế làng Vân Thê(2) và tộc Ông ở Đà Ly, từ xưa cho đến nay, tộc Ung mặc nhiên công nhận là tiền hiền đầu tiên của làng và là chủ bái trong các dịp cúng ở đình làng.

Ngày nay, tộc Ung sinh sống ở nhiều nơi nhưng đất tổ của dòng tộc, nơi “chôn nhau đặt viên gạch”, theo cách nói của người Chàm, là xứ đất Tro Ren bên cạnh khu đền tháp Bà Rầu. Mỗi năm, đến ngày chạp mã của dòng tộc, con cháu các phái tề tựu về đây tế lễ. Trong văn cúng xướng tên vị thủy tổ Ung Thái Công(3).

Theo các vị trong hội đồng gia tộc, trong làng Chiên Đàn có một ngôi mộ cổ, bia ghi: “Liêm hộ - Hiển khảo Ung Công chi mộ - Mậu Dần niên, Quý Đông, Cát nhật lập thạch. Hiếu tử Nam: Toản, Châu, Trường, Học; nữ: Liên, Nầy” (Liêm hộ - Mộ cha chúng tôi họ Ung, năm Mậu Dần, mùa đông, ngày lành. Con trai: Toản, Châu, Trường, Học; nữ: Liên, Nầy). Tại làng Đức Bố cũng có một ngôi mộ cổ tương tự, lập vào năm Tân Tỵ, trán bia ghi Liêm hộ, là mộ bà họ Trương, dâu sao tộc Ung chuyển thành tộc Ông  và chuyển vào thời gian nào. Những tộc Ung, tên các con lập bia mộ trùng với bia mộ ngài Ung Công tại Chiên Đàn(1). Tộc phả tộc Ung tại An Hà và Chiên Đàn đều ghi tên những người lập 2 bia mộ trên là con ngài thủy tổ Ung Thái Công(2). Vì vậy, theo dòng tộc, đây là hai ngôi mộ của vợ chồng ngài thủy tổ khai lập họ Ung.

Mộ hiệu Liêm hộ trên trán bia gắn liền với thời gian hình thành đơn vị hành chính gọi là thuộc. Thuộc là đơn vị hành chính trên làng/xã và ngang với tổng, bao gồm “các nơi gần rừng núi, dọc sông biển, thường đặt làm thuộc, cho các phường, thôn, nậu, man lẻ tẻ lệ vào, đặt nhân viên đốc thúc, cũng giống như các tổng”(3). Sau sự kiện năm 1471, vua Lê Thánh Tông  lập  thừa  tuyên  Quảng  Nam, đến năm 1490 nhà Lê  lập  bản  đồ cả nước, trong đó nước chia thành thừa tuyên, phủ, huyện, châu, dưới là làng, xã, thôn, trang, trại, vạn, sách…, thừa tuyên Quảng Nam có 3 phủ, 9 huyện, 93 xã, không có đơn vị thuộc. Năm 1555, theo Ô châu cận lục, dưới đơn vị châu, huyện là làng, cũng chưa xuất hiện đơn vị thuộc. Theo Phủ biên tạp lục, biên soạn vào 1776, xứ Quảng Nam ghi nhận có đơn vị thuộc, trong đó thuộc Kim hộ (金戶) có 124 xã, 41 thôn và 2 phường, có các làng Chiên Đàn đỗ chí và Vy tử bảo cấp Chiên Đàn(4). Trong địa bạ lập vào đầu thế kỷ 19, dinh Quảng Nam có 2 phủ Điện Bàn và Thăng Hoa, 5 huyện là Diên Khánh, Hòa Vang, Lễ Dương, Duy Xuyên và Hà Đông. Ngoài huyện Duy Xuyên và huyện Lễ Dương có 2 thuộc Liêm hộ(5), huyện Hà Đông có 4 tổng và 4 thuộc, tất cả 164 làng, nhưng riêng 4 thuộc Liêm hộ (鎌戶) có 129 làng/ 164 làng, trong đó có các làng Chiên Đàn tộc, Chiên Đàn trại và Chiên Đàn xã. Kim hộ và Liêm hộ là những thuộc làm nghề khai thác vàng(6). Hà Đông là huyện tập trung các hộ làm nghề khai thác vàng nhiều nhất tại Quảng Nam. Theo truyền khẩu, từ thời tổ tiên tộc Ung đã làm nghề khai thác vàng tại mỏ vàng Bông Miêu

Như vậy, thuộc Liêm hộ/Kim hộ hình thành trong khoảng thời gian từ nửa sau thế kỷ 16 đến nửa đầu thế kỷ 18. Hai ngôi mộ trên hình thành vào thời nhà Nguyễn(2), không phải mộ vợ chồng ngài thủy tổ tại  thế vào nửa cuối thế kỷ 15, sau sự kiện năm 1471, khi người Chàm bản địa tại Chiên Đàn mới thuộc Đại Việt còn bảo lưu bản sắc. Theo tộc phả tộc Ung, ngài thủy tổ Ung Thái Công còn có kính hiệu rất lạ là Xá La Cây. Cùng với các địa danh Ma Khăm, Ma Vang, Ma Nay, Trà Mưu, Trà Nê, Trà Nao, Tro Ren, Dàng/Đàng Na Niếc; kính hiệu Xá La Cây của ngài thủy tổ đã lưu lại tiếng Chàm của tiên tổ qua tên đất tên người.

Xá La Cây là những âm tiếng Chàm Sah Lakei (   ) được ký âm nguyên gốc qua chữ Nho trong tộc phả   舍羅(3). Hiệu của vị thủy tổ tộc Ung đến nay vẫn còn lưu lại trong tộc phả tiếng Chàm xưa, cùng với vị thủy tổ Chế Bà Ma(4) tộc Chế ở An Mỹ, Huế, là hai trường hợp rất hiếm trong những dòng tộc Kinh gốc Chàm tại miền Trung.

Sah (    ) là thần, vua chúa, hoàng tử, giới hoàng tộc, thượng lưu, quan tướng, chức sắc  cao cấp; cao, to, mạnh mẽ; trong sạch, tinh khiết; từ chỉ sự tôn kính. Lakei (  ) là nam giới, đàn ông(5). Sah Lakei - Xá La Cây là kính ngữ, không phải tên riêng.

Trong văn hóa truyền thống Chàm, Sah là kính ngữ gắn liền với thần linh, vua chúa, hoàng tộc và giới chức cao cấp. Tại làng Caok(6) có ngôi đền thờ Po Sah. Theo truyền khẩu, nơi đây thờ một vị tướng thân cận của vua Po Klaong Garai. Trường ca Sah Pake là tác phẩm văn học rất phổ biến của người Chàm hiện nay, kể về tình sử của cô gái Mưk Rat với hoàng tử Sah Pakei trải dài qua nhiều vùng đất Champa (Pakei: Chú, chàng, dùng đặt tên cho nhân vật(1). Các truyền thuyết về khu đền tháp Po Sah Ina(2) cho biết đây là nơi thờ các vị nữ thần, trong đó có câu chuyện về công chúa Po Sah Ina yêu và lấy ngài Po Sah Niempar, một thủ lĩnh theo đạo Hồi, nhưng anh ruột công chúa là thái tử Po Dam tìm cách ngăn cản vì không muốn em gái lấy người ngoại đạo. Hôn nhân không thành, công chúa về sống ở Mũi Né, khi qua đời được xây tháp thờ.

Ngài Sah Lakei - Xá La Cây là một nam thần, hoàng tử, người của hoàng tộc, một vị chức sắc cao quý hay là một người đàn ông tôn kính là một bí ẩn.

 V.H

 Chú thích:

(1) Tự dạng Chiên Đàn trong tộc phả họ Ung tại làng gốc Chiên Đàn: 栴檀; trong tộc phả tộc Ung tại làng Đức Bố: 㫋 檀 thuộc xã Tam Anh Bắc, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam (nay là xã Tam Anh, thành phố Đà Nẵng); trong địa bạ: 㫋 核(核 là chữ Nôm, tục tự của chữ 檀, cũng chỉ gỗ đàn hương).

(2) Arlo Griffiths, Amandine Lepoutre, William A. Southworth, Thành Phần, Văn khắc Chămpa tại Bảo tàng điêu khắc Chăm - Đà Nẵng, The inscription of Campa at the Museum of Cham sculpture in Đà Nẵng, Nxb. Đại học quốc gia tp HCM, VNU-HCM publishing house, năm 2012, tr.57-63.

(3) Theo nhà nghiên cứu địa danh Jaya Thiên, trong tiếng Chàm, Bharuv, Baruw, phát âm Ba rau, nghĩa là mới, là tên gọi khu tháp mà người đời sau chuyển thành Bà Rầu.

Từ điển Dictionnaire Cham-Viet-Français par Moussay, Texte saisi par Po Dharma Etude du Campa-Centre EFEO, Kuala Lumpur,1999, p.24.

Trung tâm nghiên cứu Việt Nam - Đông Nam Á, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, Từ điển Việt.

- Chăm, Bùi Khánh Thế chủ biên, NXB Khoa học Xã hội, 1996, tr 272.

Từ điển địa danh đối chiếu Việt - Các dân tộc

thiểu số miền Trung - Trường Sơn - Tây Nguyên, Nam bộ, Phần thứ nhất: Địa danh đối chiếu Việt

- Chăm, Việt Raglai ở miền Trung, Sakaya, Nxb. Tri Thức, 2020, trang 13,16, 17: Cũng như các địa danh Bà Đá, Bà Lồi, Bà Rắn/ Rén, Bà Vú, Bà Dàng… Bà trong địa danh Bà Dụ có thể để chỉ vị nữ thần Po Ina Nagar hay các tượng thần có ngực lớn.

(4) Trong tiếng Chàm, huma/ hamu là đồng ruộng, biến âm thành ma; aia là sông, suối, xứ sở, biến âm thành trà.

(5) Vào nửa đầu thế kỷ 20, dân làng Phú Hưng, cách làng Chiên Đàn chừng 10 km về phía nam, gần ba ngọn tháp Chàm Khương Mỹ, xã Tam Xuân 1, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam (nay là xã Tam Xuân, thành phố Đà Nẵng), tổ chức lễ Cầu Bông hàng năm trên nền một phế tích Champa gọi là tháp Một, trong văn cúng của vị chủ bái cũng vẫn còn dùng tiếng Chàm.

(6) Tại làng Trung Đàn, xã Tam Đại, huyện Phú Ninh, nơi một nhánh tộc Ung sinh sống tại làng Trung Đàn, có di tích Thành Lồi, tức thành Champa, theo khảo sát của H. Parmentier trong Inventaire descriptif des Monuments Cams deL’Annam, tập 1, trang 242. Di tích thành này chưa nghiên cứu và khai quật. Chưa rõ thành Lồi này là một trong các thành (pura) Tralauṅ Svon, Madhurāpura và Harināpura trong bia Chiên Đàn hay không. Ngoài những đền tháp còn tồn tại khá nguyên vẹn và những di tích đã được khai quật nghiên cứu, vùng này vẫn còn nhiều giếng vuông Chàm và những dấu vết đền tháp chưa được nghiên cứu hoặc vĩnh viễn biến mất.

(7) Nguyễn Trãi, Ức Trai di tập - Dư địa chí, Phan Huy Tiếp dịch, Hà Văn Tấm hiệu đính và chú thích, Nxb Sử học, Hà Nội, 1960, tr 45.

(8) Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT), bản Nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), Nxb Văn học 2017, bản chữ Nho, tờ 40 a-b, tờ 41a-b, tr.183. Tại trang 471, ghi Chiêm Động là châu Thái Chiêm (có thể Đại Chiêm, chữ Thái (大) và chữ Đại (大) giống nhau), Cổ Lũy động là châu Cổ Lũy. Chiêm Động là đất các huyện Thăng Bình, Tam Kỳ, Quế Sơn, Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Cổ Lũy động là đất các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

Nguyễn Trãi, Ức Trai di tập - Dư địa chí, sđd, trang 147: “Có lẽ Cổ Lũy là do chữ Chiêm Lũy chép nhầm… Chữ Chiêm 占và chữ Cổ 古… dễ lẫn với nhau”. Trong sách Văn hiến thông khảo, Chiêm Bất Lao (Cù Lao Chàm), viết thành Cổ Bất Lao.

(9)Về tộc Đậu, mặc dù là dòng tộc bản xứ cùng thời với các tộc Ung, Ma, Trà nhưng các vị cao niên tộc Ung chưa rõ nguồn gốc dòng tộc này.

(10) Một bản khắc gỗ vào năm 1854 còn lưu tại miếu Trắng gần đình làng Chiên Đàn, trong đó có ghi tên 16 dòng họ trong làng gồm Ung, Đống, Kiều, Nguyễn, Trần, Trương, Võ, Hồ, Bùi, Trịnh, Huỳnh, Cao, Phan, Phạm, Đỗ, Lê, không còn thấy các tộc Ma, Trà, Đậu.

(11) Karl-Heinz Golzo, Inscriptions of Campa, Shaker Verlag Aechen, 2004, tr.174-176.

(12) ĐVSKTT, sđd, tr.187, 198.

(13)      Mỗi đời hay thế hệ từ 20 đến 30 năm, trong bài viết này tính trung bình 25 năm.

Từ đời thứ 7, người anh trai trưởng từ Chiên Đàn di chuyển đến làng An Hà, nay thuộc phường An Phú, thành phố Tam  Kỳ  cũ,  một nhánh sinh sống tại thôn Bồng Miêu, thuộc xã Tam Lãnh, huyện Phú Ninh cũ, hình thành phái nhất, hiện có 180 hộ. Người anh kế di chuyển đến làng Đức Bố, thuộc xã Tam Anh Bắc, huyện Núi Thành cũ, cùng với một nhánh ở làng Nga Sơn thuộc xã Bình Trị, huyện Thăng Bình cũ, là phái nhì, hiện có 127 hộ. Người anh trai thứ 3 lên Trung Đàn, nơi có di tích Thành Lồi, thuộc xã Tam Đại, huyện Phú Ninh cũ, và một nhánh tại làng Bích Tân, gần khu tháp Khương Mỹ, thuộc xã Tam Xuân 1, huyện Núi Thành cũ, là phái ba, hiện có 133 hộ. Người em trai út ở lại Tro Ren gọi là phái tư, hiện có 32 hộ. Bốn phái tộc Ung gốc Chiên Đàn 472 hộ, hơn 2.000 người.

(14)Theo “Phan tộc phổ chí Đà Sơn - Đà Ly nhị xã”, biên soạn năm 1806, Tri thâu là một chức vụ cùng với xã trưởng quản lý một xã thời kỳ này. Đến năm 2025, tộc Ông tại Phong Lệ đã được 26 thế hệ.

(15)Làng Vân Thê thuộc xã Thủy Thanh, thị xã Hương Thủy, thành phố Huế (nay là phường Thanh Thủy, thành phố Huế).

(16)Theo tộc phả phái nhất tại An Hà và tộc phả phái tư tại làng gốc Chiên Đàn đều ghi vị thủy tổ là Ung Thái Công, hiệu Xá La Cây; tộc phả phái nhì tại làng Đức Bố chỉ ghi ngài Xá Lá Cây.

(17)Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, sđd, tr126.

(18) Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, sđd, tr.87,88.

(19) Duy Xuyên: 1 thuộc Liêm hộ với 2 làng An Toàn và Đại Đồng Thượng, Lễ Dương: 1 thuộc Liêm hộ với 2 làng An Đoàn và Khánh Mỹ.

(20) Chưa rõ vì sao Kim hộ thành Liêm hộ. Tự dạng chữ Liêm 鎌 này bộ kim (金)

(21)Phú Bình, “Tộc Ung xứ đất Chiên Đàn”, báo Quảng Nam, 20.2.2024.

(22)Theo tộc phả phái nhất tại An Hà, vị thủy tổ có 10 người con, trong đó có tên những người ghi trên bia mộ là Ung Thị Liên, Ung Thị Nầy, Ung Thị Học và Ung Nho Trường. Tộc phả phái tư tại quê gốc làng Chiên Đàn cũng ghi vị thủy tổ có 10 người con, trong đó có tên những người ghi trên bia mộ là Ung Thị Liên, Ung Thị Nầy, Ung Thị Học. Theo tộc phả phái nhì tại Đức Bố, ngôi mộ cổ là bà Trương Thị Lộc, bà có 7 người con, 5 trai, 2 gái, trong đó có 4 người có tên lập bia mộ năm Tân Tỵ là Trường, Học, Liên, Nầy.

Tộc phả tại Đức Bố lập vào năm Quý Mẹo, tức năm 1783, tộc phả tại Chiên Đàn lập vào  năm Mậu Dần 1878 và 1 bản lập năm Duy Tânthứ 8, tức năm 1915; tộc phả tại An Hà lập vào nửa Mậu Dần, tức năm 1938. Tộc phả các phái biên soạn theo ký ức lưu truyền vào các thời điểm khác nhau, khó tránh khỏi sai lệch và nhầm lẫn.

(23)      Mỏ vàng Bông Miêu cách làng Chiên Đàn khoảng 24 km (theo đường thẳng) về phía tây nam, nơi đang có một nhánh tộc Ung sinh sống, là một địa danh gốc Champa. Theo Từ điển địa danh đối chiếu Việt - Các dân tộc thiểu số miền Trung - Trường Sơn - Tây Nguyên, Nam bộ, Phần thứ nhất: Địa danh đối chiếu Việt-Chăm, Việt Raglai ở miền Trung, sđd, trang 25, 26: Mbuen Mah, phát âm như Bôn Mứ, nghĩa là đồi vàng (Mbuen: Đồi, Mah: Vàng), người Việt phát âm thành Bông Miêu, Bồng Miêu.

(24)      Theo tộc phả phái nhì tại làng Đức Bố, từ đời bà Trương Thị Lộc đến hiện nay là 8 đời, khoảng 200 năm, Tân Tỵ là năm dương lịch 1761. Chúng tôi cho rằng niên hiệu Mậu Dần trên bia mộ ông Ung Công tại Chiên Đàn là năm 1758.

 (25)      Nghĩa chính của 舍羅核: 舍(Xá): Quán trọ, nghỉ trọ; 羅(La): Vải lụa, cái lưới, bày biện; 核 (chữ Nôm - Cây): Cây cối, cây gỗ đàn hương.

(26)  Vũ Hùng, Miền tháp cổ, NXB Đà Nẵng, 2021, trang 256, 257.

(27)  -   Etienne    Aymonier,    Antoine    Cabaton,

Dictionnaire Cam - Francaise, trang 441, 458.

- Dictionnaire Cham - Viet - Français par G. Moussay, Texte saisi par Po Dharma Etude du Campa - Centre EFEO, Kuala Lumpur, 1999, trang101.

-  Từ điển Việt - Cham, Trung tâm nghiên cứu Việt Nam - Đông Nam Á, Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, Bùi Khánh Thế chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, 1996, trang 188: Xah - Hoàng tử.

-   Từ điển Cham - Việt, TPHC, Bùi Khánh Thế chủ biên, 1995 (thiếu trang): Sah - Hoàng tử.

(28) Tại thôn Hiếu Lễ, xã Phước Hậu, huyện Ninh Phước, Ninh Thuận

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

 - Arlo Griffiths, Amandine Lepoutre, William A. Southworth, Thành Phần, Văn khắc Chămpa tạo Bảo tàng điêu khắc Chăm - Đà Nẵng, The inscriptions of Campa at the Museum of Cham Scultupre in Đà Nẵng, Nxb. Đại học quốc gia thành phố HCM, VNU-HCM publishing house, năm 2012.

-  Dương Văn An, Ô Châu cận lục, Nxb. Thuận Hóa, Huế, năm 2001.

-  Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), Nxb. Văn học và Đông Á, Ngô Đức Thọ, Hoàng Văn Lâu dịch (Đông Á tái bản lần thứ nhất), Hà Nội, năm 2017.

-  Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. Nhã Nam - Hồng Đức, năm 2016.

-  Hồ Xuân Tịnh, “Đi tìm dấu tích kinh thành Indrapura”.

- Hồ Xuân Tịnh, “Nhóm tháp Chiên Đàn và mối quan hệ với các phế tích Champa ở Phú Ninh”.

- Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, tập 1, Nxb. Khoa Học xã Hội, Hà Nội, (Viện Sử học dịch), năm 1977.

(1)  Inrasara, Ariya Cam - Trường ca Chăm, Nxb Văn nghệ tp Hồ Chí Minh, 2006, trang 32-46.

Có dị bản ghi Sah Sakei, cô gái là Rat Muk (Putra Podam, Kauthara, info, 13.7.2015) (nguồn: https:// www.vietnamhumanrights.net/website/240912_ACTD2.htm)

(2) Tháp Po Sah Inư tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Po là kính ngữ: Đấng, trời, ngài. Ina: Mẹ.

-  Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, dinh Quảng Nam, Nxb. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, năm 2010.

-   “Phan tộc phổ chí Đà Sơn - Đà Ly nhị xã”, biên soạn năm 1806, bản dịch sang chữ quốc ngữ, ngày 28.12.1989 của đời 21, 22 thôn Phong Nam, xã Hòa Châu và thôn Phong Bắc, xã Hòa Thọ, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (cũ).

-   Nguyễn Trãi, Ức Trai di tập, Dư địa chí, Phan Huy Tiếp dịch, Hà Văn Tấn hiệu đính và chú thích, Nxb. Văn Sử học, Hà Nội, 1962.

-   Vũ Hùng, Miền tháp cổ, Nxb. Đà Nẵng, 2021.

-  Inrasara, Ariya Cam - Trường ca Chăm, Nxb. Văn nghệ tp Hồ Chí Minh, 2006.

-   Karl-Heinz Golzo, Inscriptions in Campa, Shaker Verlag Aechen, 2004.

-   Phú Bình, “Tộc Ung ở xứ đất Chiên Đàn”, báo Quảng Nam, 20.02.2024.

-  Phú Bình, “Chiên Đàn: Từ nguồn đến đầm”, báo Quảng Nam 24.12.2023.

-  Phú Bình, “Đình Chiên Đàn - Ngôi đình lớn nhất Quảng Nam”, báo Quảng Nam, 01.4.2013.

-  Phú Bình, “Lễ cầu bông ở làng Phú Hưng”, báo Quảng Nam, 04.02.2023

-  Phú Bình, “Tìm về Chiên Đàn, báo Quảng Nam”, 23.3.2019

-  Dictionnaire Cham-Viet-Français par G. Moussay, Texte saisi par Po Dharma Etude du Campa-Centre EFEO, Kuala Lumpur, 1999.

-   Trung tâm nghiên cứu Việt Nam - Đông Nam Á, Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, Từ điển Việt - Cham, Bùi Khánh Thế chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, 1996.

-  Trung tâm nghiên cứu Việt Nam - Đông Nam Á, Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, Từ điển Cham - Việt, Bùi Khánh Thế chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, 1995.

-  Bài viết có tham khảo ý kiến của các nhà nghiên cứu Jaya Thiên, Thạch Trung Tuệ Nguyên, Thập Liên Trưởng, người Chàm, Ninh Thuận, và chị Fatimah Amin, ở Malaysia, về tiếng Chàm và địa danh Chàm.

-  Bài viết có tham khảo tư liệu về các phế tích Phú Hưng, Trường An và Thành Lồi ở Tam Kỳ, Phú Ninh, do kiến trúc sư Lê Trí Công cung cấp.