Văn học, nghệ thuật thành phố Đà Nẵng – những chặng đường phát triển - Thanh Quế

22.09.2014

Văn học, nghệ thuật thành phố Đà Nẵng – những chặng đường phát triển - Thanh Quế

Lời người viết: Gần đây, nhân có ý định viết “Lịch sử Liên hiệp các hội Văn học – Nghệ thuật Đà Nẵng”, một số đồng chí lãnh đạo Hội và nhiều văn nghệ sĩ băn khoăn chưa biết chọn “cái mốc” ngày, tháng, năm nào trong các lần thành lập phân hội, hội ở Quảng Nam – Đà Nẵng từ sau năm 1945 đến nay để chính thức chọn “ngày sinh” cho Liên hiệp hội. Là người có nhiều năm quan hệ và công tác ở Hội Văn học – Nghệ thuật Quảng Nam – Đà Nẵng và Đà Nẵng, lại là người chuẩn bị tư liệu về hoạt động văn nghệ ở Nam Trung bộ cho Hội Nhà văn Việt Nam biên soạn “Lịch sử Hội Nhà văn Việt Nam” tôi xin cung cấp một số tư liệu để chúng ta cùng suy nghĩ.

 

T.Q

 

            Quảng Nam – Đà Nẵng là một mảnh đất có bề dày truyền thống văn học nghệ thuật đáng tự hào. Đây là vùng đất của văn hóa dân gian phát triển, là cái nôi của nghệ thuật Tuồng.

Trước Cách mạng Tháng Tám (1945) nhiều chí sĩ yêu nước cũng là nhà văn hóa như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp…đã có những áng văn giàu lòng yêu nước để vận động cách mạng. Đây là quê hương của Phan Khôi, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam , những tác giả mở đường cho văn học lãng mạn Việt Nam, là quê hương của những cây bút nổi tiếng: Khương Hữu Dụng, Nam Trân, Xuân Tâm, Phạm Hầu, Nguyễn Văn Bổng…

            Sau Cách mạng Tháng Tám (1945), một số văn nghệ sĩ đã tham gia sinh hoạt ở Hội Văn hóa cứu quốc thành phố Đà Nẵng: Nguyễn Văn Bổng, Tế Hanh…

            Trong những năm 1946, 1947, 1948, lực lượng văn nghệ sĩ tham gia kháng chiến ở vùng tự do Liên khu V (từ nam Quảng Nam đến Phú Yên) ngày một nhiều. Một số là văn nghệ sĩ ở khu vực sở tại, số khác là các văn nghệ sĩ từ miền Bắc tham gia Nam Tiến đã tập hợp về đây. Để tập hợp lực lượng văn nghệ sĩ và các nhà văn hóa kháng chiến ở Nam Trung Bộ, phục vụ cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc của dân tộc, dưới sự chỉ đạo của Liên khu ủy V, tháng 8-1948, Liên đoàn văn hóa kháng chiến Nam Trung bộ được thành lập tại Tam Quan (Bình Định) do họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung làm chủ tịch, nhà thơ Nam Trân (người Quảng Nam) làm phó chủ tịch, nhà văn Phan Thao (người Quảng Nam) làm phó chủ tịch kiêm chủ nhiệm tạp chí Miền Nam của Liên đoàn.

            Ở tỉnh cũng lập Đoàn văn hóa kháng chiến Quảng Nam – Đà Nẵng do nhà thơ Hồ Thấu làm chủ tịch, nhà thơ Trinh Đường làm thư ký, phụ trách ngành văn nghệ, nhà giáo Huỳnh Lý, phụ trách giáo dục; bác sĩ Phạm Phú Đông, phụ trách khoa học.

            Đoàn văn hóa kháng chiến tổ chức 1 tập san sáng tác văn nghệ để in các tác phẩm thơ, văn, ca dao phục vụ kháng chiến. Hình thức hoạt động chủ yếu lúc bấy giờ là các Đêm văn nghệ được tổ chức ở các nơi đông đúc như Tam Kỳ, có ca nhạc, ngâm thơ, đọc truyện, nói thời sự, phổ biến kiến thức giáo dục và đời sống mới.

            Đoàn văn hóa kháng chiến phối hợp với Ty Thông tin tuyên truyền Quảng Nam – Đà Nẵng phát động phong trào văn nghệ xuống tận các xã, thôn. Phong trào sáng tác thơ ca, hò vè và trình diễn văn nghệ rất sôi nổi trong các tầng lớp nhân dân.

            Đầu năm 1949, tại Bồng Sơn (Bình Định), ta tổ chức Đại hội văn hóa kháng chiến, bầu Đại diện Văn hóa kháng chiến Liên khu V (thay cho Liên đoàn văn hóa kháng chiến Nam Trung bộ) do nhà thơ Nam Trân làm chủ tịch (thay cho họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung ra Bắc công tác). Nhà văn Phan Thao làm Tổng thư ký kiêm Tổng biên tập tạp chí Miền Nam.

            Riêng ngành văn nghệ đã thành lập Chi hội văn nghệ Liên khu V do nhà văn Phan Thao làm chi hội trưởng, nhà văn Nguyễn Văn Bổng làm chi hội phó kiêm Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Liên khu V ra 1 tháng 2 kỳ.

            Vào dịp này, ở Quảng Nam – Đà Nẵng cũng thành lập Phân hội văn nghệ Quảng Nam do nhà thơ Trinh Đường làm phân hội trưởng. Nhiều cây bút người Quảng Nam và các tỉnh đang công tác ở văn nghệ Khu và các hội viên trong phân hội văn nghệ Quảng Nam thường xuyên đi công tác ở các cơ sở trong tỉnh, kể cả vùng tạm chiếm để sáng tác như: Hồ Thấu, Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Thành Long, Khương Hữu Dụng, Lưu Trùng Dương, Nguyễn Mạnh Hào (văn học); Hoàng Châu Ký, Nguyễn Lai, Tống Phước Phổ, Nguyễn Nho Túy (Tuồng); Phan Huỳnh Điểu (âm nhạc)… và họ có nhiều tác phẩm xuất sắc như Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, Từ đêm 19 của Khương Hữu Dụng…

            Một số cây bút đang tích lũy vốn sống, sau này là những cây bút chủ lực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ như: Phan Tứ, Nguyên Ngọc, Võ Quảng, Thu Bồn, Ngọc Anh (văn học); Trương Đình Quang, Thuận Yến (âm nhạc); Nguyễn Văn Thông, Phan Văn Định (điện ảnh)…

            Một số người dạy văn, sau này trở thành những cây bút nghiên cứu phê bình văn học xuất sắc như Huỳnh Lý, Lê Trí Viễn, Lê Đình Kỵ…

            Sau năm 1954, nhiều cây bút đã tập kết ra Bắc, trở thành những tác giả chủ lực của các ngành văn học nghệ thuật Việt Nam. Một số cây bút ở lại miền Nam vẫn tiếp tục viết về kháng chiến như Nguyễn Văn Xuân, Vũ Hân, Vũ Hạnh (chuyển vào Sài Gòn).

            Nghị quyết 15 (1959) của Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, làm xoay chuyển tình hình, từ thế giữ gìn lực lượng đã chuyển sang tấn công địch, từ đấu tranh chính trị chuyển sang đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang.

            Ngày 20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời để lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam. Các lực lượng quân sự, chính trị, văn hóa đều cần được phát triển để đáp ứng nhu cầu. Bên cạnh lực lượng tại chỗ ở miền Nam còn có sự chi viện của miền Bắc ruột thịt ngày càng nhiều. Từ đó, các ban, ngành, đoàn thể ra đời và phát triển, trong đó có sự ra đời của Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam.

            Ở Khu V, bên cạnh văn nghệ sĩ từ đồng bằng lên căn cứ còn có nhiều văn nghệ sĩ miền Nam tập kết ra Bắc và văn nghệ sĩ người miền Bắc lần lượt về Khu: Phan Tứ, Nguyên Ngọc, Thu Bồn, Cao Phương, Chu Cẩm Phong, Dương Hương Ly, Liên Nam…(văn học); Phan Huỳnh Điểu, Văn Cận (nhạc); Khánh Cao (đạo diễn); Phương Thảo (múa); Thế Vinh, Hồng Chinh Hiền…(mỹ thuật) và đoàn Tuồng Khu V, chủ yếu là người Quảng Nam. Ở các tỉnh trong Khu lực lượng văn nghệ cũng phát triển từ các nguồn trên.

            Nhận thấy lực lượng văn nghệ trong Khu, nhất là văn học đã phát triển mạnh nên Khu ủy quyết định tổ chức Đại hội văn nghệ để thành lập Chi hội văn nghệ giải phóng Trung Trung bộ (đến 1973 đổi thành Hội Văn nghệ giải phóng Trung Trung bộ) vào ngày 9 và 10 tháng 10 năm 1967, tại Nước Vin, Trà My, Quảng Nam. Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành do nhà văn Nguyên Ngọc làm Chủ tịch Hội; nhà thơ Vương Linh (Hải Lê) làm Phó chủ tịch kiêm Bí thư Đảng Đoàn; nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu, đạo diễn Khánh Cao làm Phó chủ tịch.

            Sau Đại hội văn nghệ, không khí văn nghệ đã phát triển rầm rộ trong Khu. Ngay trong năm 1967 tại tỉnh Quảng Đà, Phân hội văn nghệ giải phóng Quảng Đà được thành lập do nhà văn Đoàn Xoa làm phân hội trưởng. Phân hội đã tập hợp được nhiều cây bút ở địa phương như: Đoàn Xoa, Hồ Hải Học, Hoài Hà, Trần Văn Anh, Triều Phương, Nguyễn Đình An, sau đó là Hồ Duy Lệ, Vũ Thành Lê…Phân hội có tờ tạp chí Văn nghệ giải phóng Quảng Đà để in các tác phẩm thơ, văn xuôi, hội họa, âm nhạc…của các cây bút Quảng Đà.

            Tại Quảng Nam, trong năm này, Phân hội văn nghệ giải phóng Quảng Nam cũng được thành lập do nhà thơ Chí Cao làm phân hội trưởng. Phân hội đã tập hợp nhiều cây bút như Chí Cao, Vũ Dương, Vũ Minh (Lý Anh Minh), Hoàng Hương Việt, Huỳnh Phan Lê (văn học) rồi Phạm Hồng, Lê Văn Thìn (hội họa). Tạp chí Văn nghệ giải phóng Quảng Nam cũng ra đời để in những sáng tác của các tác giả trong tỉnh.

            Đoàn văn công Quảng Đà và Đoàn văn công Quảng Nam được thành lập, bám sát tuyến trước, luồn sâu vào vùng địch để biểu diễn, phục vụ nhân dân, có lúc có cả binh lính Sài Gòn.

            Trong hoàn cảnh in ấn khó khăn, nhưng cả 2 phân hội Văn nghệ giải phóng Quảng Nam và Quảng Đà đã xuất bản được nhiều sách báo gồm thơ, truyện, ca dao, sách về các gương chiến đấu, sản xuất điển hình của chiến sĩ và nhân dân. Một số vở diễn đặc biệt là loại hình dân ca Khu V được dàn dựng kịp thời, các đội nghệ thuật không chuyên ở các huyện, xã cũng được phát triển.

            Ở thành phố, thị xã như Đà Nẵng, Tam Kỳ, Hội An, văn nghệ cũng phát triển, nhất là lực lượng học sinh, sinh viên đã phát triển thơ ca, kịch, bài hát yêu nước, trở thành vũ khí sắc bén tấn công địch ngay sào huyệt của chúng. Nhiều tác phẩm bất hợp pháp được xuất bản rộng rãi, gây được tiếng vang. Nhiều tác giả nổi tiếng như Đông Trình, Phan Duy Nhân… (Đà Nẵng), Phan Trước Viên, Nguyễn Nho Sa Mạc… (Quảng Nam).

            Chiến trường Quảng Nam – Đà Nẵng cũng là nơi đón tiếp nhiều văn nghệ sĩ của Khu V về công tác như Phan Tứ, Nguyên Ngọc, Nguyễn Chí Trung, Thu Bồn, Cao Phương, Dương Hương Ly, Nguyễn Khắc Phục, Ngô Thế Oanh, Thanh Quế, Nguyễn Bá Thâm, Đỗ Văn Đông (văn học); Phan Huỳnh Điểu, Văn Cận, Thanh Đính (nhạc); Nguyễn Thế Vinh, Hà Xuân Phong, Giang Nguyên Thái (hội họa)…

            Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, lực lượng văn học nghệ thuật ở Quảng Nam – Đà Nẵng đã lớn mạnh hẳn lên về số lượng và chất lượng. Lực lượng này bao gồm: lực lượng văn nghệ lớp kháng chiến chống Pháp đi tập kết trở về, lực lượng trưởng thành trong chống Mỹ ở Khu và ở 2 tỉnh Quảng Nam, Quảng Đà, lực lượng văn nghệ trong lòng địch. Đó là vốn quý báu góp phần quan trọng trong sự nghiệp văn học nghệ thuật tỉnh nhà.

            Để phát huy năng lực tiềm tàng của đội ngũ văn nghệ sĩ đóng góp cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vào năm 1977, Thường vụ tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng ra Quyết định thành lập Ban vận động thành lập Hội văn nghệ Quảng Nam – Đà Nẵng và cử đồng chí Ngô Xuân Hạ, ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy làm trưởng ban.

            Vào ngày 28/9/1977 Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng đã ra quyết định số 3510/QĐUB “Đồng ý thành lập Hội Văn nghệ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng”.

            Sau 6 tháng chuẩn bị tích cực, ngày 1/4/1978, Đại hội thành lập Hội Văn học – Nghệ thuật tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng đã chính thức khai mạc, đánh dấu một bước phát triển mới của phong trào văn học nghệ thuật Quảng Nam – Đà Nẵng. Đồng chí Hồ Nghinh, Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy đã phát biểu chào mừng: “Đại hội văn học nghệ thuật lần này nhằm đáp ứng yêu cầu tập hợp lực lượng văn nghệ trong tổ chức Hội văn học nghệ thuật Quảng Nam – Đà Nẵng, một đoàn thể của những người làm công tác văn nghệ địa phương phấn đấu lao động nghệ thuật, xây dựng một nền văn học nghệ thuật có nội dung xã hội chủ nghĩa, tính chất dân tộc và sắc thái địa phương, có tính đảng, tính nhân dân sâu sắc, tích cực góp phần đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng tư tưởng và văn hóa trong tỉnh, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh…”

            Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành gồm 17 người do nhà văn Phan Tứ làm Chủ tịch, nhà thơ Lưu Trùng Dương, nhà viết kịch bản sân khấu Hoàng Châu Ký, nhà văn Đoàn Xoa làm Phó chủ tịch.

            Đại hội Văn học - Nghệ thuật Quảng Nam – Đà Nẵng lần thứ II được tổ chức vào ngày 6-5-1983. Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành gồm 21 người do nhà văn Phan Tứ làm Chủ tịch, các nhà văn Lưu Trùng Dương, Bùi Minh Quốc (kiêm Tổng biên tập tạp chí Đất Quảng), Đoàn Xoa làm Phó chủ tịch.

            Đại hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng lần thứ III được tổ chức vào ngày 7/4/1988, bầu ra Ban chấp hành gồm 20 người, do nhà văn Phan Tứ làm Chủ tịch (tháng 6/1988 nhà viết kịch Hồ Hải Học làm Chủ tịch, nhà văn Phan Tứ nghỉ để sáng tác), nhà thơ Hoàng Trọng Dũng làm Phó chủ tịch, nhà thơ Thanh Quế làm Phó chủ tịch kiêm Tổng biên tập tạp chí Đất Quảng.

            Đại hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng lần thứ IV được tổ chức ngày 5/4/1993, đã bầu ra Ban chấp hành 9 người do nhà văn Hồ Duy Lệ làm Chủ tịch, nhà thơ Thanh Quế làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng biên tập tạp chí Đất Quảng.

            Trải qua khoảng thời gian từ 1978-1996, Hội Văn học – Nghệ thuật Quảng Nam – Đà Nẵng đã đóng góp nhiều thành tựu cho văn nghệ tỉnh nhà và cả nước. Nhiều văn nghệ sĩ trong Hội đã trở thành những tên tuổi quen thuộc ở địa phương và cả nước: Phan Tứ, Lưu Trùng Dương, Đông Trình, Bùi Minh Quốc, Đoàn Xoa, Thanh Quế, Thái Bá Lợi, Ngô Thị Kim Cúc, Nguyễn Bá Thâm, Đỗ Văn Đông, Trương Văn Ngọc, Phạm Phát, Bùi Công Minh… (văn học); Nguyễn Hoàng Kim, Phạm Hồng, Nguyễn Đức Hạnh, Mai Ngọc Chính, Phó Đức Vượng, Nguyễn Thị Phi, Đỗ Toàn, Phạm Văn Hạng, Duy Ninh, Lê Huy Hạnh, Vũ Dương, Hoàng Đặng, Hà Dư Sinh, Phan Ngọc Minh, Hoàng Ân, Từ Duy, Nguyễn Long Bửu… (mỹ thuật); Phan Ngọc, Thanh Anh, Minh Đức, Hoàng Bích, Trần Hồng, Trương Đình Quang…(âm nhạc); Hoàng Châu Ký, Hồ Hải Học…(sân khấu); Lê Huân (múa); Vũ Thanh Tú, Ông Văn Sinh, Xuân Quang…(nhiếp ảnh); Hoàng Hương Việt, Nguyễn Văn Bổn, Bùi Văn Tiếng…(văn nghệ dân gian); Phạm Sĩ Chức (kiến trúc); Đoàn Huy Giao, Hồ Trung Tú…(điện ảnh)…

            Nhiều tác giả trẻ dồi dào sức lực xuất hiện, sẽ là lực lượng chủ lực cho giai đoạn sau: Đà Linh, Nguyễn Kim Huy, Bùi Tự Lực, Võ Kim Ngân, Nguyễn Nhã Tiên, Lê Thu Thủy, Nguyễn Tâm Đăng, Phan Hoàng Phương, Nguyễn Minh Hùng, Nguyễn Nho Khiêm, Nguyễn Tấn Sĩ, Nguyễn Tam Mỹ, Lê Trâm, Tiêu Đình…(văn học); Đinh Gia Thắng, Trần Nhơn, Lê Đợi, Nguyễn Tường Vinh, Nguyễn Trọng Dũng rồi Hồ Đình Nam Kha, Trịnh Thanh Sơn, Võ Thanh Tịnh, Nguyễn Quang, Quang Huy (mỹ thuật); Thái Nghĩa, Trần Ái Nghĩa, Trịnh Tuấn Khanh, Văn Thu Bích, Nguyễn Đức, Hướng Dương, Nguyễn Đình Thậm… (âm nhạc); Phan Thị Thu Loan (kịch); Phạm Phú Bình (kiến trúc); Nguyễn Thiện Tâm, Hội An (múa); Huỳnh Hùng, Lê Ngọc Linh (điện ảnh); Phạm Hữu Đăng Đạt, Võ Văn Hòe, Võ Văn Thắng…(văn học dân gian).

            Ngày 1/1/1997, Quảng Nam – Đà Nẵng được chia tách thành 2 đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương là thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Ban chấp hành Đảng bộ Quảng Nam – Đà Nẵng cũ đã chỉ định lãnh đạo các Sở, ban, ngành của 2 đơn vị trên. Nhà thơ Thanh Quế được chỉ định làm Quyền chủ tịch Hội Văn học – Nghệ thuật Đà Nẵng. Nhà văn Hồ Duy Lệ làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Nam.

            Tuy chia tách, nhưng lực lượng văn nghệ sĩ hầu hết vẫn ở lại thành phố Đà Nẵng. Lúc này, tại Đà Nẵng có lực lượng của Hội Văn nghệ Quảng Nam – Đà Nẵng (cũ) và lực lượng của Hội Văn nghệ thành phố Đà Nẵng (cũ) nhập lại, đặc biệt là lực lượng trẻ được phát triển mạnh mẽ từ các thập niên 70, 80, 90 trong tất cả các ngành văn học nghệ thuật.

            Để tập hợp lực lượng văn nghệ sĩ thành phố, Đại hội văn học nghệ thuật lần thứ V – Đại hội đầu tiên của thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương, đã khai mạc vào ngày 24/3/1998. Đồng chí Trương Quang Được, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy đã đến dự và phát biểu chào mừng: “Đại hội văn học nghệ thuật lần này diễn ra trong bối cảnh cả nước, trong đó có thành phố chúng ta đang tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng và các nghị quyết Trung ương về những vấn đề có liên quan đến nhiều lĩnh vực trọng yếu của hoạt động đất nước, phấn đấu cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục đích dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Những thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo ngày càng phát huy hiệu quả, góp phần khẳng định và nâng cao vị trí dân tộc ta đối với thế giới. Thành phố Đà Nẵng của chúng ta từ sau khi trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, với sự nỗ lực của mình cùng sự hỗ trợ giúp đỡ của Trung ương và các địa phương bạn đã có nhiều biến chuyển đáng phấn khởi cả về cơ sở hạ tầng – kỹ thuật lẫn đời sống văn hóa tinh thần, cả ở thành thị, nông thôn, ven biển và miền núi…”

            Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành nhiệm kỳ 1998-2003 gồm 11 người do nhà viết kịch Hồ Hải Học làm Chủ tịch; nhà thơ Thanh Quế, Phó chủ tịch kiêm Tổng biên tập tạp chí Non Nước.

            Vào ngày 26/4/2001, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Nguyễn Bá Thanh đã có quyết định đổi tên Hội Văn học - Nghệ thuật thành phố thành Hội Liên hiệp Văn học – Nghệ thuật thành phố Đà Nẵng.

            Xét thấy lực lượng văn học nghệ thuật ngày càng phát triển và càng đi vào chuyên nghiệp theo từng bộ môn, ngày 24/12/2001, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố đã ký quyết định về việc cho phép thành lập hội văn học và nghệ thuật chuyên ngành. Theo các quyết định này, từ năm 2002, Hội Liên hiệp Văn học – Nghệ thuật Đà Nẵng bao gồm các hội thành viên: Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc, Hội Nhiếp ảnh nghệ thuật, Hội Nghệ sĩ sân khấu, Hội Nghệ sĩ múa, Hội Văn nghệ dân gian, Hội Kiến trúc sư. Đến năm 2007, Hội Điện ảnh được thành lập.

            Đại hội Hội Liên hiệp Văn học – Nghệ thuật thành phố Đà Nẵng lần thứ VI (lần 2 khi thành phố trực thuộc Trung ương) được diễn ra vào ngày 24/3/2003. Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành gồm 13 người, do nhà viết kịch Hồ Hải Học làm Chủ tịch, nhà thơ Thanh Quế làm Phó chủ tịch kiêm Tổng biên tập tạp chí Non Nước.

            Sau đại hội này, được sự đồng ý của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, Hội Liên hiệp Văn học – Nghệ thuật Đà Nẵng được đổi tên thành Liên hiệp các hội Văn học – Nghệ thuật thành phố Đà Nẵng.

            Đại hội Liên hiệp các hội Văn học – Nghệ thuật thành phố lần thứ VII (lần thứ 3 khi thành phố trực thuộc Trung ương) được tổ chức vào tháng 9/2009. Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành gồm 13 người do nhà thơ Bùi Công Minh làm Chủ tịch, nhiếp ảnh gia Ông Văn Sinh và nhà văn Nguyễn Thị Thu Hương làm Phó Chủ tịch; nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm làm Phó Chủ tịch kiêm Tổng biên tập tạp chí Non Nước.

            Tháng 9/2014 Đại hội Liên hiệp các hội Văn học – Nghệ thuật thành phố Đà Nẵng lần thứ VIII (lần thứ 4 khi Đà Nẵng trực thuộc Trung ương) sẽ được tổ chức. Đại hội sẽ đánh giá tình hình hoạt động văn học nghệ thuật trong nhiệm kỳ qua và đề ra nhiệm vụ trong nhiệm kỳ tới. Đại hội lần này đánh dấu thêm một bước phát triển mới của văn học nghệ thuật thành phố Đà Nẵng.

 

7-2014

                                                                                                                        T.Q

 

Bài viết khác cùng số

Tháng năm dài lắm - Nguyễn Văn TámKhung cửa gỗ - Đinh Quỳnh NhưGấu bông của mẹ - Trần Thị HuyềnKhoảnh khắc bạn bè - Kịch ngắn Phan Toàn Phía bên kia - Nguyễn Đông NhậtMưa rào đầu hạ - Truyện ngắn Đỗ Kim CuôngTruyện ngắn Đinh Thị Như ThúyHồi ức những ngày đầu kháng chiến chống Pháp - Trần Trung SángThư Ban biên tập Nhân kỷ niệm 45 năm “di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Lời Di chúc gửi êm bên gối” - Nại Hiên5 Năm – Nhìn lại và đi tới - Bùi Công MinhVăn học, nghệ thuật thành phố Đà Nẵng – những chặng đường phát triển - Thanh QuếHội nghệ sĩ sân khấu nâng cao chất lượng sáng tác, biểu diễn - Trường HoàngNhìn lại một chặng đường - Võ Văn HòeHội nhiếp ảnh nghệ thuật Đà Nẵng: Hòa nhịp cùng hơi thở cuộc sống - Đặng Văn NởTạp chí Non Nước và tạp chí Đất Quảng song hành trên con đường văn học, nghệ thuật - Hồ Duy LệLá thư Trường Sa - Ngô Thế Lâm Giữ biển - Xuân HiệuThơ Đặng Hiển Thơ Lê Thị MâyĐiều chưa hình dung - Tăng Tấn TàiNói với giấc mơ - Bùi Mỹ HồngThơ Vạn LộcTình xưa gặp lại - Xuân ThànhSương trắng Bà Nà - Phú ThiệnChiều thu - Nguyễn TưTình thu - Nguyễn Công ToảnNhớ Hà Nội - Nguyễn KhôiThăm lại nghĩa trang -Lê ĐàoHồn Quê - Đỗ Như ThuầnThơ Mai Văn PhấnThơ Mai Thanh VinhThơ Ngân Vịnh“Chất Quảng” – dấu ấn riêng trong ngôn từ nghệ thuật của Nguyễn Văn Xuân - Trương Thanh ThủyMột gia đình xứ Nghệ đã đóng góp cho đất Quảng hai vị Đốc học - Châu Yến LoanThêm một cứ liệu để lí giải địa danh: Sơn Trà hay Sơn Chà? - Trần Xuân AnTheo dấu bằng chứng chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa (tt) - Trần Đức Anh Sơn Tính nhân bản và tính công dân thơ ca Cách mạng giai đoạn 1964 -1975 - Bằng Việt Nâng cao chất lượng hoạt động của các Hội chuyên ngành - những vấn đề còn trăn trở…Đọc lại những trang viết mùa hè - Trần Trung Sáng