Một Hội An chất ngất trong thơ Nguyễn Nho KhiêmMột Hội An chất ngất trong thơ Nguyễn Nho Khiêm

08.08.2024
Đặng Ngọc Như
Mỗi tác giả văn học đều có khuôn gương tinh thần làm nên phong cách - tư tưởng. Thơ Nguyễn Nho Khiêm không phải cá biệt. Đọc tập thơ Tiếng chim xanh biếc tôi như được tương ngộ cùng Nguyễn Nho Khiêm, đặc biệt qua 18 bài thơ viết về phố cổ Hội An trong phần “Đêm Hội An”.

Một Hội An chất ngất trong thơ Nguyễn Nho KhiêmMột Hội An chất ngất trong thơ Nguyễn Nho Khiêm

Một số tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Nho Khiêm

Tiếng lòng - Tiếng thơ Nguyễn Nho Khiêm bùng lên từ chỗ, va chạm vết đứt gãy địa - văn hóa Quảng Nam - Hội An - Thanh Chiêm với trục chính là Hội An - Thanh Chiêm. Sự va chạm diễn ra trong quãng thời gian - không gian cực ngắn (đêm - ngày), cực hẹp (Hội An - hẹp). Nhưng khoảnh khắc, hẹp mà vô cùng.

Tôi mạnh dạn nói: Không ở đâu cốt cách thơ Nguyễn Nho Khiêm xét về phong thái, ngôn ngữ, thể loại, thi ảnh, thi tứ cô đặc lại như ở Đêm Hội An.

18 tựa bài, 24 trang in, 198 dòng (có dòng chỉ 1 từ), trung bình mỗi trang in hơn kém 8 dòng. Trong đó bài 4 câu (8 bài), 8 câu (2). Bài cực ngắn như tứ tuyệt là phổ biến. Bài 20 câu, 28, 30 chỉ mỗi loại 1 bài.

Tại sao tác giả làm thế? Độ nén đến cực tiểu về dung lượng phải chăng nhằm tạo cái “ý tại ngôn ngoại”?

Trong khi đó, những gì của một Hội An - văn hóa lại không hề bị bỏ sót. Về món ăn được nói đến 8 lần: chè bắp, chè đậu, cao lầu, bánh chưng, bắp luộc. Say: nói đến 9 lần. Về kiến trúc Chùa Cầu, Chùa Phước Kiến nói đến 6 lần. Về Thiên nhiên: sương (5 lần), rêu (9 lần), mưa (19 lần), màu sắc (18 lần).

Nhưng đặc biệt nhất là Phố & Con đường được nói nhiều nhất (42 lần), và đường là đường xa, đường xưa, phố là phố tình, phố thêu, phố kiêu sa, phố phiêu diêu…

Cái tôi trữ tình trong thơ cũng đổi ngôi vô cùng biến hóa (32 lần) từ người, ai, đến tôi, ta, rồi anh, em trực tiếp.

Số liệu thông kê trên liệu có làm người cảm thụ phân vân? Thơ tự sự trữ tình mà nhiều chi tiết hiện thực đến như vậy liệu có làm nghẹt thở?

Hoàn toàn không. Người xưa nói chỉ cần đưa đũa gắp một món đủ biết bữa ăn ngon. Ngược lại, đọc chậm, đọc kỹ mới thấy cái phong thái, phong vận người thơ. Còn đó ở mỗi dòng thơ, bài thơ là những khoảng trắng, khoảng trống, khoảng lặng. Các chi tiết chỉ là chuyện. Người thơ chép lại cái khác

Nghe người kể chuyện bể dâu

Tôi ngồi chép lại một câu thơ tình

 

Trăm năm trước và trăm năm sau nữa

Anh vẫn ngồi mơ dọc phố sông này

 

hãy để mình em

ngồi lại với sông Hoài

 

Góc phố này bờ sông kia anh biết

Thủy triều vang như rượu ngấm mơ dài…

 

Mà chiều nay nắng thơm gió ngọt

Dòng sông Hoài cứ cù rủ thương yêu

Tại mái tóc cơn mưa vô hình nhan sắc

Nên bây giờ mỗi bước mỗi liêu xiêu

Hình như được về với Hội An là được về với người cũ, cố nhân, với ký ức không phai cho nên có trạng thái người xưa - nay đồng hiện trong cõi thơ, khiến nhà thơ lúc nào, cảm quan nào cũng phân thân bởi cái vị ngoại vị và thật bất ngờ người thơ - nhà thơ đã một lần hóa thân làm người cũ vì lỡ chìm vào miền nhớ.

Đó là lúc Con đường Hội An thành con đường ký ức, ly chè bắp ngọt thấu tuổi xưa. Anh đội mũ, mang giày làm công tử vì điều quan trọng nhất là đây:

Anh biết em chờ anh phía sau

ngách cửa

Phố phiêu diêu tà áo hoàng hoa.

Rõ là thanh lịch mà sang trọng.

Nhà thơ đã sống thơ một khi thực sự sống tâm tình người Phố Hội - Văn Hóa. Phong thái nhà thơ gặp đúng người thơ.

*

Trở lại với thể loại. Nguyễn Nho Khiêm viết một lúc 11 bài lục bát trong 18 bài Đêm Hội An. Một tỷ lệ áp đảo. Thể thơ dân tộc được ưu ái.

Thơ lục bát từ Nguyễn Du, sang Huy Cận, Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư đã đi bước dài sáng tạo nối tiếp, khó vượt qua cho những người đi sau. Thơ lục bát Nguyễn Nho Khiêm vẫn có bước phát triển.

Nguyễn Nho Khiêm viết thơ cũng như nói chuyện với người: dễ gần dễ cảm. Nhưng thơ phải hay: từ ý, tứ, hình ảnh và đặc biệt ngôn ngữ!

Dễ thấy trong thơ Nguyễn Nho Khiêm là cách dùng từ. Không phải vấn đề nhãn tự trong thơ cổ.

Ta thấy hàng loạt từ có được nét nghĩa lâm thời, phong vị mới nhờ “độ chạm” của cách ghép từ. Độ chạm các từ tố cũ - mới tạo nên trường nghĩa chưa tùng có: Bờ sương mai, nắng mai sau, sóng ngói mái nhà, lặng lẽ hương, thấm nhớ, thanh tân em, thương ngóng nhớ, võng sóng, nắng thơm, gió ngọt an hội, an yên, miền trắng thương, không gian nắng, thời gian mưa, mùa sóng chau, vùng chưa lối về, hơi thở mùa thu, thời gian phố…

Cho nên đọc thơ tình của Nguyễn Nho Khiêm ta thấy không hề lặp lại người khác.

Chỉ cần tìm trong 18 bài/ 97 bài của tập Tiếng chim xanh biếc một Đêm Hội An huyền hoặc để thấy lại con người Hội An thuở nào: thung thăng, đủng đỉnh, kinh lịch. Con người với tâm tầm biểu tượng cho cả một vùng văn hóa hun đúc nên: An yên, an hội thuở nào, thuở thanh bình 300 năm cũ.

Người thơ của chúng ta một lần thử vào vai công tử thanh lịch thăm phố? Chẳng cần phải thế đâu. Hội An thấm đẫm, đậm đà khó quên tận từng mỗi dòng thơ!

(Tạp chí Non Nước số 318)